10:40 AM 10/10/2016  | 

Việt Nam vốn là một đất nước thuần nông, vấn đề trị thủy rất quan trọng, nhất là việc thủy chế điều hòa nước từ các con sông lớn và thực hiện việc đắp đê chống lũ lụt. Dưới triều Nguyễn, trị thủy là một trong những việc được quan tâm hàng đầu trong suốt thời gian tồn tại triều đại này.

Các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI – XVI đều có chính sách khuyến nông và quan tâm đến công tác trị thủy. Từ thời Lê Trung Hưng trở đi, tình hình kinh tế – chính trị – xã hội ở nước ta diễn biến phức tạp… việc đê điều trị thủy ở Bắc Thành hầu như bị lãng quên.

Năm 1803 khi mới lên ngôi, vua Gia Long đã bắt tay vào việc ổn định chính trị, kinh tế và rất quan tâm đến việc trị thủy. Sách Đại Nam thực lục cho biết sau khi các quan ở trấn Bắc Thành tâu lên vua Gia Long rằng: “Thế nước sông Nhị Hà rất mạnh, đê bên tả, bên hữu ven sông thuộc Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam Thượng nhiều chỗ vỡ lở, xin thuê dân sửa đắp đê chống lụt mùa thu. Lại thủ đạo nhiều nơi ứ tắc, xin hạ lệnh cho trấn tùy thế khơi vét”, Vua Gia Long đã cho sửa và đắp đê, đến năm 1806 lệnh xuống cho đắp thêm 110 đoạn đê mới ở các nơi như Sơn Nam Thượng thuộc huyện Thanh Trì, Gia Lâm, Văn Giang, tổng cộng 1.500 trượng (1 trượng bằng 0,4m dài). Năm 1809, vua Gia Long đặt chức quan Đê chính Bắc Thành (chuyên coi về đê điều Bắc Bộ) và cử bộ Binh Thượng thư Trần Đăng Thường làm Tổng lý và quan tham chính bộ Công Nguyễn Khắc Thiệu làm tham lý. Cũng từ năm 1809, vua Gia Long quy định: Cứ tháng 10 âm lịch hàng năm, các quan, phủ, huyện, trấn phải lần lượt đến kiểm tra lại đê, đê nào nên sửa đắp thì sửa đắp, đều khởi công vào tháng giêng hoặc tháng 2 đến tháng 4 là phải xong. Sau khi lên ngôi được 1 năm, vua Gia Long đã có chuyến thị sát đê Hà Nội và chuẩn chi ngay 80.400 quan tiền tu sửa và đắp thêm 7 đoạn đê mới.

Việc đê điều, trị thủy vẫn tiếp tục là vấn đề quan trọng được các triều vua tiếp theo của nhà Nguyễn như: Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức… hết sức chú trọng. Năm 1828, theo đề nghị của các quan, vua Minh Mệnh đã quyết định tăng thêm nhân sự cho Nha môn Đê chính và cho rằng vấn đề đê điều, trị thủy được đặt lên hàng đầu để vỗ yên dân chúng. Dưới triều vua Minh Mệnh (1820-1840) hầu như năm nào cũng có cuộc trị thủy lớn ở Bắc Thành, thậm chí có những công trình quy mô đến mức triều đình huy động hàng vạn người. Nay xem đầu nguồn của các đường sông ở Bắc Thành, Hưng Hóa thì có sông Thao, sông Đà; ở Tuyên Quang thì có sông Lô, sông Đáy; hai huyện Tiên Phong, Bạch Hạc thuộc Sơn Tây thì bốn sông hợp lưu vào sông Nhị rồi sau đó chia chảy ra biển. Trong khoảng đó, nước lũ chảy rất mạnh và nhanh không thể ngăn được.

Điều đáng nói nữa là bên cạnh những điều lệ thưởng phạt từ triều Gia Long, vua Minh Mệnh còn bổ sung nhiều điều luật chặt chẽ, nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn sự việc Hiệp trấn Sơn Nam Ngô Huy Viễn bị cách chức, Tham hiệp trấn Vũ Tiến Huân bị đánh 100 trượng và phát đi làm lính cơ còn Trấn thủ (cũ) Lê Công Lý mặc dù chết nhưng vẫn bị thu lại bằng sắc, tất cả do ăn bớt tiền công quỹ khiến cho đê mới đắp đã bị vỡ hoặc bị sạt lở.

Châu bản tập 24, tờ 200, năm Minh Mệnh 8 (1827) là một ví dụ:

1_1_2_024_200_01 (1)1_1_2_024_200_021_1_2_024_200_031_1_2_024_200_04

Tạm dịch:

Thn là Nguyn Hu Thn, chc Hip tng trn Bc thành cúi đu dp đu trăm ly, cúi xin soi xét vic: Gi T ngày 12 tháng này có tiếp tin cấp báo ca b H đến, kính phng khon 1 trong Thưng d rng, căn c vic Bc thành tu báo lên: “ các trn thuc hy, nưc sông dâng cao, tràn qua đê phòng lũ, ngp rt nhiu, xâm hi c vào nhà ca, rung lúa, dân chúng đói kh. Vic đê điu ca thành y quan h đến dân sinh, không h tính toán phí tn, đã b mưi vn tin lương đ gia c, tu sa. Khi mùa hè mưa nhiu, nưc sông đã thy ngày càng dâng cao, sao không mt mt tu báo lên trên, mt mt sc cho quan li, binh dân đp đt phòng b, đã không biết d phòng công vic trưc, đến lúc lâm thi gp nn nưc hoành hành, li không phân phái quan viên tc tc trù tính, mà nhng viên đưy thác chuyên trách thì li không biết cân nhc công vic. Đến c khi tu báo s vic, c sao không tc tc cho nga đưa tin, khiến cho ti v đến dân chúng nng n như vy? Thế hi trạm dch đt ra đ làm hư màu ư?” Nhng ly đã rõ hết các khon, th dưi cúi ly mà không khi run s. Vào tháng 5 nhun ca năm nay, nưc sông c dâng dn lên, thn đã cho hi đng quan coi đê điu là Nguyn Đc Hi cùng vi quan viên ca các trn s xem xét các đon đê công, sc lnh cho dân chúng  các xã nm ven đưng nưc lũ phi d b đt đp đ phòng h đê. Đến thưng tun và trung tun tháng 5, nưc sông đã tm rút li dâng lên tr li. Thn bèn cp tc sc cho quan viên các trn chia ra giám sát đê điu, đon nào b ngm l thì đc bt dân phu h li. Xét thế khó duy trì thì lp tc báo cáo li đ tin phái binh lính dc sc mà h trì. Thế nhưng vào ngày 23 tháng này, bng nhiên nưc sông dâng nhanh gp bi khi thưng. Căn c li báo lên ca các trn Sơn Nam, Bc Ninh, Sơn Tây, Nam Đnh thì các đon đê công có ch đã b l xói, ngm hết c. Nưc sông dâng cao quá mt đê, có ch đến mt thưc rưi, có ch mt thưc, có ch năm tc không đu nhau. Quan viên các try hin đã đc sut dân binh h trì. Thn lp tc hi đng quan chuyên qun binh lính là Trương Văn Minh, phân phái các viên Chánh, Phó thng qun cơ Mưi đem binh lính nhanh chóng đi dc sc h trì. Sau li tiếp quan viên các trn Sơn Tây, Sơn Nam, Nam Đnh liên tc báo v rng nưc sông lên d, nhiu đon đê công b phá l hết c. Nưc sông li dâng cao quá, tràn c qua mt đê, ngp hết c đng rung, lúa m đu b ngp chết hết, nhà ca thì trôi ni, dân chúng cũng chết đui. Thn lp tc cho xut tin chi cho các viên Lang trung đi xem xét tình hình ri ưc lưng mà phát chn. Đến ngày mùng 2 tháng này mi đem vic tu báo lên. Sau đó, vào ngày mùng 3 li cho quan nha binh tào là Nguyn Đăng Tuân, Chưng cơ thng qun Trung quân, trn đnh cơ 10 là Nguyn Văn Quyn đến trn Sơn Nam khám xét tình hình đói kém và cho phát chn. Xét li ln nưc lũ ngp này, thn ch biết theo l mà làm, không tu báo lên trưc, khi tu báo li không cho nga trm chuyn tu cho nhanh, tht có nhiu điu không hp vic, cn chu khin trách nghiêm. Thn xin cam nhn vn ti. Còn như quan h tào kiêm vic đê điu là Nguyn Đc Hi, Th lang Nguyn Khoa Minh, quan phát ti vn chuyn là Cai tào thiêm s Hoàng Quýnh, Lang trung Phan Văn Phong, đã giao phái đi phát chn. Duy có Nguyn Đc Hi là còn  nha quan lo vic. Ngày mùng 5 tháng này, Nguyn Khoa Minh v li nha quan, ngày 13 Nguyn Đc Hi phng lnh đi trn Sơn Tây khám xét và trù tính vic phòng h đê điu cùng vi phát chn cu đói. Nay nưc sông đã rút, nhưng nưc ngp vào trong đng rung vn còn ách  đó. Thn đã sc Nguyn Đc Hi cùng vi các trn quan trn Sơn Tây, Sơn Nam, Nam Đnh xem xét các đon đê công, đon nào b l st thì cho đp li, đon nào thng h thì cho bi li, đ khi nưc trong các rung rút thì thì tránh nưc xâm nhp vào làm ngp li. Các vic cn làm như thế nào, thn s x lý tha đáng và tu lên đy đ. Cúi dám mo mui tu lên, hu mong đi ơn trên soi xét. Lâm s không khi s hãi. Cn tu.

Ngày 16 tháng 7 năm Minh Mệnh 8 (1827)

Châu phê: biết rồi. Khâm mệnh.

Theo chúng tôi thống kê, thời vua Gia Long, khối lượng và chiều dài đê được đắp là 119.999 trượng và trên 30 cửa cống ở các trấn Vĩnh Thuận, Thọ Xương thuộc phủ Hoài Đức và trấn Sơn Nam Thượng. Trong 20 năm trị vì (1820-1840) khối lượng và chiều dài đê thực hiện dưới thời Minh Mệnh nhiều hơn các triều đại trước, đặc biệt vào năm 1827 với 28 đại công trường mở ra cùng lúc ở 4 trấn: Sơn Tây, Sơn Nam, Bắc Ninh, Nam Định với tổng dự toán 175.500 quan tiền. Năm 1829, đê Bắc Thành có 238.660 trượng (hơn 954 km), trong đó đắp mới 36.129 trượng (144,5 km) chưa kể hơn 400 km đê theo dạng “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Cho đến thời Tự Đức thì chiều dài, khối lượng của hệ thống đê Bắc Thành được đắp mới dưới triều Nguyễn bằng tất cả các triều trước cộng lại, lại làm thêm hệ thống thoát lũ, phân lũ ở phần hạ lưu, trung du sông Hồng.

 Những nỗ lực trong công tác trị của thủy triều Nguyễn không chỉ giúp người dân sản xuất, trồng trọt, bảo vệ mùa màng, an cư lạc nghiệp mà còn giúp triều đình có những thành công lớn trong việc trị quốc, an dân.

Tài liệu tham khảo

1. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Mục lục Châu bản triều Nguyễn.

2. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, tập 24, tờ 200, Minh Mệnh 8 (1827).

3. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, tập 30, tờ 20, Minh Mệnh 10 (1829).

4. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, tập 39, tờ 154, Tựu Đức 5 (1852).

5. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập II, Nxb Giáo dục.

Ths. Hoàng Nguyệt