Sau cuộc đảo chính ngày 09-3-1945 tại Hà Nội, Nhật Bản đã trở thành thế lực chính trị tối cao, xóa bỏ chủ quyền của chính phủ Vichy trên toàn Đông Dương. Tiếp đó, cuộc tổng khởi nghĩa ngày 19-8 của nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi và cuộc kháng chiến Việt - Pháp bùng nổ. Chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 và những thắng lợi liên tiếp của quân đội nhân dân Việt Nam ngay sau đó đã báo hiệu ngày tàn của quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương.
Nhìn thấy khả năng sẽ thất bại trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương, chính quyền thuộc địa Pháp đã tìm cách chuyển tài liệu lưu trữ về nước. Trong bối cảnh này, một thỏa ước về việc phân chia tài liệu bảo quản tại Kho Lưu trữ trung ương ở Hà Nội và Kho Lưu trữ Nam Kỳ ở Sài Gòn đã ra đời[i].
Thỏa ước ký ngày 15-6-1950 (trước chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950 khoảng 4 tháng) giữa chính phủ Bảo Đại và đại diện chính phủ Pháp ở Đông Dương là Cao uỷ Léon Pignon gồm 7 chương, 17 điều khoản trong đó quy định những tài liệu thuộc quyền sở hữu của chính phủ Pháp bao gồm:
- Tài liệu của các công sở Pháp trước khi thành lập Liên bang Đông Dương.
- Tài liệu của văn phòng và các phòng ban thuộc Phủ Toàn quyền.
- Tài liệu của Thống sứ Bắc Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ và Thống đốc Nam Kỳ gồm tài liệu của văn phòng và các cơ quan hay các công sở đặc thù của Pháp; tài liệu về Toà án, hộ tịch, nhân sự và tài liệu của Văn phòng các Tỉnh trưởng, Thị trưởng, Đốc lý và nói chung tất cả những tài liệu mang tính chất chính trị, ngoại giao, quân sự hoặc tài liệu cá nhân.
Dựa vào Thỏa ước này, Pháp đã mang về nước tổng số 163 hòm tài liệu của Phủ Thống sứ Bắc Kỳ cũ và của Kho Lưu trữ Trung ương ở Hà Nội, chưa kể đến số sách lấy từ Thư viện Trung ương ở Hà Nội và tài liệu của Kho Lưu trữ Trung ương chưa kịp mang đi còn để lại ở Sài Gòn[ii].
Thư số 589 ngày 17-7-1954 của Léa Faugère gửi phụ trách bộ phận Lưu trữ của Bộ Pháp quốc Hải ngoại báo cáo kết quả của chiến dịch hồi hương tài liệu
Ngày nay Pháp thường dùng từ “hồi hương” (rapatriement) đối với những tài liệu đã được mang về Pháp theo Thỏa ước 1950. Theo hồ sơ số 153/471 thuộc phông HCI[iii] của ANOM tại Aix-en Provence, chiến dịch “hồi hương” tài liệu của Pháp bắt đầu từ cuối tháng 11-1953 và kết thúc vào ngày 15-7-1954, trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký chính thức 6 ngày.
Hồ sơ bao gồm công văn, thư từ trao đổi giữa Simone de Saint - Exupery, Giám đốc Thư viện Trung ương ở Hà Nội với Tư lệnh Hải quân Quốc gia ở Bắc Việt Nam, đại diện của Cao uỷ Pháp ở Bắc Việt Nam, Tư lệnh các lực lượng Hải quân ở Bắc Việt Nam, Tổng Thanh tra Giáo dục, Trưởng phái đoàn văn hoá Pháp, Cao uỷ Pháp ở Việt Nam và phụ trách bộ phận lưu trữ của Bộ Pháp quốc Hải ngoại về chiến dịch “hồi hương” tài liệu nói trên.
Tài liệu quan trọng nhất trong hồ sơ này là thư số 589 ngày 17-7-1954 của Léa Faugère[iv] (thực hiện theo lệnh của Giám đốc) gửi phụ trách bộ phận Lưu trữ của Bộ Pháp quốc Hải ngoại. Nội dung thư cho biết, tính đến ngày 15-7-1954, sau khi chiến dịch “hồi hương” tài liệu kết thúc, có 43 hòm tài liệu đã được chuyển vào Sài Gòn và 163 hòm được chuyển về Bộ Pháp quốc Hải ngoại, tổng cộng là 206 hòm.
Số tài liệu trên đã được chuyển làm nhiều đợt liên tiếp đến Lãnh sự Pháp tại Hải Phòng, nơi Hải quân Quốc gia Pháp đến tiếp nhận để đưa vào Sài Gòn và chuyển về Pháp theo đường hàng hải.
Trong thời gian nghiên cứu tại Aix, chúng tôi đã kiểm tra được nội dung chính của khối tài liệu này như sau:
- Toàn bộ phông Bộ Tham mưu các lực lượng viễn chinh của Pháp tại Đông Dương 1880-1899[v]: phông này chứa đựng các công văn trao đổi, nhật ký các cuộc thám sát, các cuộc hành quân, báo cáo của các khu quân sự… Đó là những thông tin chính xác về các cuộc tấn công quân sự, phiên chế của các tiểu đoàn, cuộc sống thường ngày của binh lính và các sự kiện trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trên thực tế, tài liệu của phông này cung cấp cho người nghiên cứu những thông tin vô giá về lịch sử quân đội Pháp ở Bắc Kỳ, Lào, Cam-pu-chia, Quảng Châu Loan và Thái Lan từ những năm đầu Pháp tiến hành xâm chiếm Đông Dương cho đến năm 1885.
- Phông Đô đốc và Toàn quyền Đông Dương 1858-1945[vi]: phông này gồm phần lớn phông Đô đốc và các Thống đốc và gần như toàn bộ phông GGI với các công sở chuyên môn trực thuộc. Trong phông này có một série (F: chính trị) có giá trị đặc biệt về lịch sử thuộc địa của Đông Dương vì nó vừa tập hợp những báo cáo của các Thống sứ, các Công sứ các tỉnh, vừa có báo cáo của các Sở Mật thám, các tài liệu liên quan đến quan hệ ngoại giao giữa chính quyền thuộc địa với các nước láng giềng, các bản tường thuật, công văn trao đổi… Hơn thế nữa, série này còn cung cấp một nguồn thông tin rất phong phú giúp người nghiên cứu hiểu rõ về những sự kiện xẩy ra trong cuộc chiến tranh giành độc lập của các dân tộc ở Đông Dương.
Ngoài ra, tại Aix-en Provence còn một phần nhỏ tài liệu phông RST, một phần của phông IGTP (1876-1946)[vii], toàn bộ phông Ban Chỉ đạo các Sở Kinh tế Đông Dương (1914-1944)[viii], toàn bộ phông Toà Khâm sứ Cam-pu-chia (1887-1945)[ix] và một số sưu tập tài liệu cá nhân[x].
Đặc biệt, tại Aix-en provence còn có phông Sở Bảo vệ lực lượng viễn chinh[xi], gồm tài liệu của cơ quan an ninh trực thuộc Cao ủy Pháp ở Đông Dương được thành lập ngày 13-11-1953 với nhiệm vụ “thu thập những thông tin cần thiết để cung cấp cho nhà cầm quyền dân sự và quân sự nhằm mục đích dẫn dắt chiến tranh và các cuộc hành quân”. Là một cơ quan an ninh chuyên “quan tâm đến tổ chức và các hoạt động của chính phủ Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài…”, “theo sát hậu quả của những cuộc điều đình giữa nước Pháp với các quốc gia khác” nên tài liệu được cơ quan này sản sinh ra được đánh giá là “có giá trị chủ yếu đối với tất cả các nghiên cứu liên quan tới giai đoạn tổ chức lại các nước [Đông Dương] sau sự trở lại của nước Pháp, của cuộc chiến tranh Đông Dương và sự chấm dứt hiện diện của người Pháp [ở Đông Dương]”[xii]. Nhiều tài liệu trong phông này có thời gian từ khi người Pháp bắt đầu tới Đông Dương cho đến khi các công sở, các cá nhân và quyền lợi của người Pháp “hồi hương”.
Lối vào Lưu trữ quốc gia hải ngoại Pháp (ảnh của tác giả)
Thời gian đầu sau khi “hồi hương”, số tài liệu đó được bảo quản tại Lưu trữ Bộ Pháp quốc Hải ngoại ở Paris. Năm 1966, chính phủ Pháp cho xây dựng Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (CAOM)[xiii] ở Aix-en Provence để tập trung tất cả tài liệu được “hồi hương” từ các thuộc địa về. Tại sao Aix-en Provence được chọn làm nơi đặt Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại của Pháp? Theo giải thích của Chamson, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục Lưu trữ Pháp trong lễ khánh thành Trung tâm này, “vì Aix-en Provence ở rất gần Marseille, cửa ngõ phía Đông của nước Pháp, nơi xuất phát của lịch sử công cuộc thực dân”[xiv].
Ở Đông Dương, ách xâm lược của Pháp đã được xóa bỏ hoàn toàn sau chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Đã 70 năm trôi qua. Cùng với những tài liệu còn lại ở Việt Nam, số tài liệu mang về Pháp theo Thoả ước ngày 15-6-1950 đã đóng góp một phần rất lớn vào việc nghiên cứu về xã hội Việt Nam thời thuộc Pháp, về lịch sử thực dân Pháp ở Đông Dương và về phong trào chống Pháp của các nước Đông Dương cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
[i] Convention ralative aux services d’archives relevant, en ce qui concerne le Vietnam, de la Direction des Archives et Bibliothèques de l’Indochine. TTLTQG 1, DABI, hs: 2139.
[ii] Con số này lấy từ thư đề ngày 17-7-1954 của Léa Faugere, Lưu trữ -Thư viện viên của Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương gửi phụ trách bộ phận lưu trữ của Bộ Pháp quốc Hải ngoại ở Paris, hồ sơ 153/471, phông Cao ủy Pháp ở Đông Dương (fonds du Haut Commissaire de la France en Indochine - HCI), bảo quản tại ANOM. Theo những tài liệu có liên quan, chúng tôi cho rằng con số này chưa phải là con số xác thực. Trong số những tài liệu chưa kịp mang về Pháp còn để lại Sài Gòn có tài liệu của phông Nha Kinh lược Bắc Kỳ. Dẫn theo: Đào Thị Diến, Les archives coloniales au Vietnam (1858-1954). Les fonds conservés au Dépôt Central de Hanoi. Fonds de la Résidence supérieure au Tonkin, Thèse de Doctorat sous la direction de Alain Forest, Université Paris 7 – Denis Diderot, 2004.
[iii] Phông Cao ủy Pháp ở Đông Dương (Fonds du Haut Commissaire de la France en Indochine - HCI).
[iv] Cô Léa Faugère, Lưu trữ - Thư viện viên là Chủ tịch Uỷ ban kiểm tra 2000 hòm để chuẩn bị vận chuyển tài liệu về Pháp. Uỷ ban tổ chức họp lần đầu tiên tại Kho Lưu trữ Trung ương ngày 30-12-1950.
[v] Fonds de l’Etat-Major des Troupes de l’Indochine.
[vi] Fonds des Amiraux et du Gouvernement général de l’Indochine.
[vii] Fonds Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương (Fonds de l’Inspection générale des Travaux publics de l’Indochine - IGTP).
[viii] Fonds de la Direction des Services Economiques de l’Indochine.
[ix] Fonds de la Résidence supérieure au Cambodge.
[x] Những sưu tập tài liệu cá nhân có liên quan đến Việt Nam ở Aix gồm những tài liệu thuộc phông Cao uỷ Pháp ở Sài Gòn 1946-1954 (fonds du Haut-Commissariat de France à Sài Gòn 1946-1954) và những tài liệu của phông Toà Khâm sứ Trung kỳ 1875-1942 (fonds de la Résidence supérieure en Annam 1875-1942). Dẫn theo: Đào Thị Diến, Les archives coloniales au Vietnam (1858-1954). Les fonds conservés au Dépôt Central de Hanoi. Fonds de la Résidence supérieure au Tonkin, Thèse de Doctorat sous la direction de Alain Forest, Université Paris 7 – Denis Diderot, 2004.
[xi] Fonds du Service de Protection du Corps Expéditionnaire – SCPE
[xii] Silvie Claire (Conservateur du patrimoine): Inventaire du fonds, Mai 1996.
[xiii] Centre des Archives nationales d’outre mer (CAOM) nay là ANOM.
[xiv] Silvie Claire, Le Centre des Archives d'Outre-Mer, La Gazette des archives, n°142-143, 3-4 trimestres 1988, parue le 31 janvier 1989, p. 6.
TS. Đào Thị Diến