11:09 AM 02/10/2024  | 

Hà Nội với 36 phố phường và 5 Cửa ô trong những vần thơ, câu hát đã khắc sâu trong tâm thức biết bao thế hệ người Việt. Cửa ô - danh xưng độc đáo, riêng biệt chỉ có ở Hà Nội, được mở ra tại phần tiếp giáp với sông Hồng, có chức năng như một cửa khẩu buôn bán và được canh phòng cẩn mật. Tuy nhiên, trải qua bao biến thiên thăng trầm của lịch sử, những Cửa ô xưa của đất Kinh kỳ đã chìm dần trong ký ức. Câu chuyện về những Cửa ô của Hà Nội là một nội dung đầy tính hấp dẫn về chính bản thân nó cũng như gắn liền với lịch sử của mảnh đất nghìn năm văn hiến Thăng Long - Hà Nội.

Ảnh cửa ô Quan Chưởng./Viện TTKHXH

 

Thành Thăng Long - Hà Nội được xây dựng theo kiểu “tam trùng thành quách” (nghĩa là có ba vòng thành bao bọc lẫn nhau). Vòng thành ngoài cùng rộng lớn nhất (Đại La thành) vốn là một lũy đất mượn thế theo dòng chảy của các con sông (Hồng, Tô Lịch, Kim Ngưu) mà các triều đại phong kiến Việt Nam dựng lên với chức năng vừa chống ngập lụt vừa làm chức năng quân sự. Tuy nhiên, phải đến đầu thời Mạc (do bối cảnh lịch sử) vòng thành Đại La được xây dựng một cách kiên cố hơn với thành đất, lũy tre và hào nước bảo vệ. Theo sử sách ghi chép, năm 1749, chúa Trịnh Doanh đã cho đắp một tòa thành đất bao bọc khu hoàng thành Thăng Long, xung quanh bên ngoài có hào nước sâu cắm chông bảo vệ. Trên thân thành đất mở ra 8 cửa để cho người dân qua lại. Kiến trúc mỗi cửa được thiết kế gồm một cửa chính và hai ô cửa phụ hai bên, trên cửa có vọng lâu canh gác. Tất cả 8 cửa đều có kích thước, hình dạng giống nhau.

Từ “Cửa ô” trong tiếng Việt vốn được dịch từ Ô môn 塢門 trong tiếng Hán. Từ “môn” có nghĩa là “cửa”. Từ “ô” được cấu tạo bởi hai bộ phận: bộ phận chỉ ý (là bộ thổ) và bộ phận chỉ âm (ô). Theo các từ điển: Khang Hi tự điển, Từ nguyên, Từ hải, Hán ngữ từ điển đều giải thích ý nghĩa của từ “ô”, còn âm đọc là “ổ” là: khu đất trũng, xung quanh đắp cao tạo thành vật che chắn; là nơi cư trú của các loại vật (như ổ gà, ổ chó); là lũy đất bao vây làng xóm để ngăn chặn sự xâm phạm từ bên ngoài vào (thôn ổ, trúc ổ). Từ “ô” còn có ý nghĩa là cửa giao tiếp từ bên trong với bên ngoài.

Tên gọi các Cửa ô là căn cứ vào tên các thôn xã có cửa ô đặt vào. Mỗi cửa ô lại có đặc trưng riêng biệt nên bên cạnh đó còn có tên gọi dân gian như Cửa ô Thịnh Quang còn gọi là ô Cầu Dừa.

Thời xưa, đây là các cửa ra vào kinh thành. Ban đêm, tại các Cửa ô đều có tuần phiên canh gác. Một điểm đặc biệt khác là, phần lớn các Cửa ô đều thông ra sông Hồng và sông Tô Lịch. Phía tây có 2 cửa, phía nam có 3 cửa ra sông Tô Lịch; lối ra sông Hồng có 11 cửa. Lý do là bởi thời đó, đường giao thông nối Thăng Long với các vùng khác chủ yếu là đường sông. Dọc sông Hồng có nhiều bến, phố xá đông đúc, nhiều hiệu buôn lớn của người Việt và người nước ngoài đã tập trung tại đây.     

 

Tờ Sức của Nha huyện Thọ Xương ngày 21 tháng 2 nhuận năm Thành Thái 2 (1890) về việc lập các trạm phu để tuần tra, canh gác ở các Cửa ô/TTLTQGI

 

Dưới triều Nguyễn, Thăng Long - Hà Nội  biến đổi về vai trò và nhiều lần được điều chỉnh quy hoạch không gian. Theo “Bắc thành dư địa chí” soạn hồi đầu thế kỷ XIX, Hà Nội có 21 Cửa ô. Khi nhà Nguyễn hạ cấp kinh thành Thăng Long xuống chỉ còn là Bắc thành thuộc tỉnh Hà Nội, số Cửa ô chỉ còn 16. Trong bản đồ Tòa thành Hà Nội (thành đất) do hai ông Lê Đức Lộc và Nguyễn Công Tiến dựng năm 1831 có ghi vị trí và tên của 16 Cửa ô. Ngoài ra, trên tòa thành đất bao bọc vòng ngoài còn xác định được 2 Cửa ô là Trung Hiền (ở ngã tư Bạch Mai - Đại La - Trương Định - Minh Khai) và Cửa ô Tây Dương ở trước cây cầu Giấy bắc qua sông Tô. Nhưng đến bản đồ Tỉnh thành Hà Nội vẽ năm 1866, đời vua Tự Đức thì chỉ còn 15 Cửa ô và không còn Cửa ô Nhân Hòa. Và điều đáng chú ý là nhiều Cửa ô đã mang tên mới: Yên Hòa thành Yên Phụ, Yên Tĩnh thành Yên Định, Thạch Khối thành Nghĩa Lập, Phúc Lâm thành Tiền Trung, Tây Luông thành Trường Long, Thanh Lãng thành Lãng Yên, Yên Ninh thành Thịnh Yên, Kim Hoa thành Kim Liên, Thịnh Quang thành Thịnh Hào. Và số lượng 15 Cửa ô vẫn giữ nguyên trên bản đồ Hà Nội năm 1873, tên các Cửa ô được thể hiện bằng hai ngôn ngữ và được đánh số từ 01 đến 15.

 

Bản đồ Hà Nội năm 1873 với phần chú giải rõ tên 15 cửa ô Hà Nội./TTLTQGI

 

Năm 1888, người Pháp đã hợp thức hóa việc chiếm khu vực này bằng cách ép vua Đồng Khánh ra chỉ dụ cắt đất cho họ để lập khu nhượng địa và gọi là thành phố Hà Nội. Như vậy ngoài tỉnh Hà Nội thành lập thời Minh Mạng còn có thành phố Hà Nội thuộc Pháp. Địa giới thành phố Hà Nội (thuộc Pháp) hẹp hơn địa giới kinh đô Thăng Long cũ. Nó bắt đầu từ dốc Yên Hoa (nay là Yên Phụ) theo chiều kim đồng hồ xuống đến Cơ Xá Nam (tương ứng với cảng Hà Nội hiện nay), sau đó vòng ra Cửa ô Thanh Bảo (tương ứng với khu vực bến xe Kim Mã) rồi vòng trở lại dốc Yên Hoa. 

Để bảo vệ an ninh của thành phố nhượng địa Hà Nội, năm 1889 chính quyền Pháp thành lập khu “ngoại thành” Hà Nội gồm các xã của huyện Vĩnh Thuận và một số xã của huyện Thanh Trì. Cụ thể là từ Yên Phụ vòng ra Nhật Tân, chạy ra Cầu Giấy theo sông Tô Lịch đến khu vực Lương Yên ngày nay.[1] Từ khi lập ra khu “ngoại thành”, chính quyền Pháp lập thêm đồn chốt ở các con đường chính từ ngoại thành dẫn vào trong phố. Các chốt chính được lập tại chợ Bưởi, Cầu Giấy, đầu phố Yên Hoa, ngã tư Vọng và đầu phố Bạch Mai ngày nay. Họ cấm không cho ăn mày ăn xin vào trong phố, kiểm tra thẻ của những người lao động tự do vào làm công trong nội đô, ai không có thẻ là không cho vào.[2]

Khi người Pháp bắt đầu xây dựng thành phố Hà Nội, họ đã nhiều lần nhắc đến bức lũy Đại La xây năm 1749 để xác định giới hạn quy ước của đô thị Hà Nội. Lá thư của Thống sứ Bắc Kỳ gửi Đốc lý Hà Nội ngày 30/12/1889 đã nhấn mạnh: “Bức lũy cũ phải được coi như giới hạn của thành phố”[3].Chúng cũng là những con đê cao hơn phố xung quanh, nhưng nay đã bị bạt đi khá nhiều như: Trần Khát Chân, Đại Cồ Việt, La Thành, Giảng Võ, Ngọc Hà, Hoàng Hoa Thám… với tổng chiều dài 16 km. Các Cửa ô qua dãy lũy này có vai trò quan trọng để các nhà quy hoạch xác định hướng giao thông chính và vùng dân cư, đồng thời trở thành nét đặc trưng của Hà Nội.

Ngày nay, theo biến thiên của thời gian, các Cửa ô của Thăng Long- Hà Nội gần như không còn dấu tích, chỉ còn lại duy nhất ô Quan Chưởng (tên chữ Hán là Đông Hà môn).

Ảnh Cửa ô Quan Chưởng.

 

“Theo ghi chép, cổng được xây dựng năm 1749 để phòng thủ kinh thành ở mặt sông Hồng. Cổng có 1 cửa chính trên có tháp canh và hai cửa phụ hai bên, phía trên để trống nhưng có lan can trang trí. Trên tường cửa chính có gắn một tấm bia đề năm Tự Đức thứ 34 (1882) cấm lính gác đòi tiền người qua lại… Cổng này có nguy cơ bị phá vào năm 1906 nhưng may mắn được Trường Viễn Đông Bác Cổ cứu thoát…”.[4]

Những Cửa ô xưa như ô Đông Mác, Yên Phụ, Cầu Dền, Đồng Lầm, Chợ Dừa, Cầu Giấy,..nay đã trở thành những nút giao thông hoặc những khu vực quan trọng của Thủ đô. Tuy vậy, hình ảnh Cửa ô xưa vẫn hiện hữu đâu đó như những kí ức không thể nào quên trong tâm thức của bao thế hệ người Hà Nội.

Tài liệu tham khảo:

 

 

 

[1] TTLTQGI/MHN/07;

[2] TTLTQGI/NHTX/363/54;

[3] TTLTQGI/RST/78647;

[4] TTLTQGI/Tư liệu/S1163.

Hải Yến - Nguyễn Hằng