12:42 AM 14/09/2025  | 

Ngày 04/12/1894, Giám đốc Thảo cầm viên Sài Gòn Eugène Haffner gửi thư cho Thống đốc Nam Kỳ đề cập đến lợi ích của việc trồng cây đay ở Đông Dương, sau những lần trồng thử nghiệm cho kết quả đáng khích lệ. Đứng sau ý tưởng trồng cây đay ở Việt Nam là hãng Saint Frères khởi xướng nhằm phục vụ sản xuất bao bì xuất khẩu gạo - thế mạnh của Nam Kỳ lúc bấy giờ.

Hãng Saint Frères của Pháp, ra đời năm 1814, chuyên dệt vải làm bao bì đóng gói từ cây gai dầu và lanh. Sau đó, châu Âu biết đến loại sợi đay nhập từ Ấn Độ thuộc Anh. Người Scotland là những người Âu đầu tiên đưa loại sợi này vào sản xuất bao bì, còn người Pháp phải đợi đến năm 1843. Nhanh chóng nắm bắt được tương lai công nghiệp, hãng Saint Frères đã tận dụng và phát triển ngành công nghiệp dệt đay. Chỉ trong năm 1895-1896, hãng đã mua đến 25.200.000 kg sợi đay do Ấn Độ sản xuất. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất lớn, hãng quyết định đưa cây đay vào trồng ở Đông Dương[1].

Những đợt trồng thử nghiệm ở Nam Kỳ

Trong báo cáo gửi Thống đốc Nam Kỳ, E.Haffner cho biết, theo đề xuất của Guyon - đại diện hãng Saint Frères ở Calcutta (Ấn Độ), tháng 5/1893, cây đay (tên khoa học là corchorus capsularis) được trồng thử nghiệm tại vườn thực nghiệm của Thảo Cầm Viên Sài Gòn ở tả ngạn kênh Thị Nghè, đối diện kho vũ khí của quân Pháp. Cây đạt chiều cao từ 3-3,5 m[2].

Thư của Haffner gửi Thống đốc Nam Kỳ báo cáo kết quả trồng thử nghiệm cây đay, nguồn: hồ sơ 487 Phông Sở Nông Lâm và Thương mại Đông Dương, TTLTQG1

 

Sau 4 đợt thử nghiệm liên tục, kết quả cho thấy đây là loại cây trồng mùa vụ, cần gieo vào thời điểm nhất định (từ 15/4 đến cuối tháng 5). Việc trồng thử nghiệm tiếp tục được tiến hành trong năm 1894 nhưng bị chậm lại do giống cây đặt mua từ Ấn Độ[3] bị giao trễ đến Nam Kỳ. Haffner cũng đã gửi cho vườn Bách Thảo Hà Nội 60 kg hạt đay để gieo vào ngày 07/6/1894 hoặc trong tháng 7.

Các đợt trồng thử nghiệm trong năm 1894 cho kết quả như sau:

- Các cây giống trồng ngày 07/6 cho năng suất trung bình 1.050 kg xơ đay/héc-ta, tổng chiều cao của cây đạt từ 2-2,5m.

- Cây giống trồng ngày 10/7 cho năng suất 600kg xơ đay/héc-ta, tổng chiều cao của cây từ 1-1-,5m.

- Cây giống trồng ngày 02/8 cho năng suất rất thấp, cây còi cọc không thể thu hoạch xơ đay, cây chỉ cao từ 0,8-1m.

- Cây giống trồng ngày 03/9 không phát triển được, chỉ cao 30 cm trong khi các cây giống trồng ngày 04/5/1893 đạt chiều cao lên đến 3,5m, cho năng suất 1.475 kg xơ/héc-ta.

Điều đó cho thấy thời gian gieo trồng và chất lượng hạt giống ảnh hưởng rất lớn đến năng suất xơ đay. Thời điểm gieo trồng tốt nhất là trước ngày 15/5. Bên cạnh đó, việc chuẩn bị đất rất quan trọng, để cây phát triển tốt, cần xới đảo đất ít nhất hai lần. Cày đất lần thứ nhất phải tiến hành ngay khi thu hoạch lúa nếu cây đay được trồng trên các ruộng lúa và lần thứ hai ngay khi những cơn mưa đầu tiên xuất hiện để có thể gieo trồng vào cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5. Bừa đất giúp làm tơi đất và dọn cỏ. Nếu cần bổ sung độ màu cho đất, cần bón phân sau lần cày thứ hai và bừa đất lại ngay sau đó. Phương pháp này chỉ áp dụng đối với phân bón hóa học, còn đối với phân hữu cơ, cần phải ủ phân trước khi bón.

Khi đất đủ độ tơi xốp, tiến hành gieo hạt và bừa đất để hạt giống được chôn sâu (12 kg/héc-ta) giúp cây trưởng thành đủ sức chống chịu với gió. Đất cần được chuẩn bị kỹ, đảm bảo độ tơi xốp và độ ẩm để hạt nảy mầm sau 3-4 ngày gieo. Các cây mầm phát triển đồng đều sẽ cho năng suất cao. Nếu hạt nảy mầm không đều, phải gieo lại, vì khi cây trưởng thành phát triển không đồng đều sẽ khó chống chịu gió, dễ đổ rạp hoặc mọc nhiều cành làm giảm năng suất và gây khó khăn trong thu hoạch xơ. Ngược lại, nếu gieo quá dày, cây sẽ phát triển chiều cao, ít cành, năng suất cũng thấp.

Để sử dụng phân bón hiệu quả trong trồng đay, cần phải phân tích thành phần của cây và đất. Năm 1893, dược sĩ Hải quân hạng nhất Dubois đã tiến hành phân tích thành phần của cây đay và đi đến kết quả như sau. Trong 100g cây đay xanh (gồm cả rễ, thân cây, lá và quả), thành phần hóa học bao gồm: nước: 67%; nitơ (đạm): 0,35%; axit photphoric: 0,24%; canxi: 0,12%; kali hiđroxit: 0,11%; natri hiđroxit: 0,33%. Việc phân tích đất được tiến hành khá đơn giản.

Để làm giàu thành phần đất, ngoài phân hữu cơ, phân dơi (rất giàu nitơ và axit photphoric), người nông dân Nam Kỳ còn dùng phân thực vật: rơm, khô dầu lạc (giàu nitơ, axit photphoric và kali hiđroxit), xơ dừa và khô dầu bông. Phân phốt phát gồm bột tôm, bột xương cá đến từ các xưởng sản xuất nước mắm khá phổ biến ở xứ này. Tuy nhiên, các sản phẩm này thường được các thương lái Hoa kiều thu mua, điều này thấy rõ trong các đồn điền trồng tiêu của Hoa Kiều ở Hòn Chông.

Việc thu hoạch thân cây đay diễn ra khoảng 80-90 ngày sau khi gieo hạt. Trong gần 3 tháng này, người trồng gần như không phải chăm sóc nhiều, ngoại trừ tưới nước cho ruộng đay. Khi cây đay bắt đầu ra hoa, đó là thời điểm thu hoạch thân đay - công việc khá nặng nhọc cho đến tận khâu ngâm đay, cùng lúc với thời điểm gieo mạ và cấy lúa.

Nếu đay được gieo hạt vào những ngày cuối tháng 5 cho thu hoạch vào thời gian từ 15-31/8. Trung bình mỗi công nhân có thể chặt được 3 mẫu đay/ngày và để đay tự héo ngay trên ruộng trong 1-2 ngày. Sau đó tiến hành phân loại trước khi đem đi ngâm để tạo sự đồng đều, những thân cây nhỏ và vừa nếu ngâm quá lâu cùng với những thân cây to sẽ làm mất giá trị khi xe sợi. Thân cây được bó thành từng bó phơi dưới ánh nắng mặt trời trong 1 ngày trước khi đem đi ngâm. Phần gốc được ngâm trong 4 ngày, sau đó toàn bộ thân cây được ngâm trong bể ngâm chứa nước tù 1 ngày, không ngâm ở nơi có nước chảy để tránh làm xô lệch vỏ đay gây khó khăn trong tách vỏ. Sau khoảng 10-15 ngày ngâm trong nước và ngừng ngâm nước khi vỏ đay tách khỏi thân để tách xơ ra khỏi thân.

Trong báo cáo, Haffner cho hay, cách thu hoạch xơ đay của nông dân Ấn Độ khá đơn giản: họ lội nước tới tận thắt lưng, bẻ 1/3 thân đay dùng vồ gỗ từ từ tách vỏ đay, tách xong dùng khuỷu tay quấn vỏ đay, buộc lại rồi thả xuống nước. Cũng có một số nơi, họ dùng vồ gỗ gõ vào gốc thân rồi rũ mạnh xuống nước, khi vỏ đay tự động tách ra họ vớt gom buộc lại từng bó. Phương pháp này có ưu điểm là phụ nữ và trẻ em có thể tham gia tách vỏ. Xơ đay được rửa sạch, loại bỏ tạp chất sau đó được phơi trên dây dưới nắng mặt trời. Tuy nhiên, việc đưa cây đay vào trồng phổ biến ở Nam Kỳ bị chững lại do Guyon qua đời và người kế nhiệm của ông ta không có ý định xúc tiến nghiêm túc việc này.

Hành trình du nhập vào Bắc Kỳ

Năm 1895[4], Simonet - đại diện hãng Saint Frères ở Hà Nội, trụ sở ở phố Paul Bert đã cho tiến hành trồng thử nghiệm cây đay ở Bắc Kỳ, từ tháng giêng cho đến tháng 6 âm lịch, số lượng hạt gieo 6-8kg/mẫu. Ngay khi đến Hà Nội, Timothée Simonet đã phân phát hơn 2.200 kg hạt đay, chủ yếu cho các đồn điền của người Pháp, phần còn lại cho người bản xứ. Ba héc-ta đất ở khu vực quanh ấp Thái Hà của Kinh lược Hoàng Cao Khải cũng được dùng để trồng thử nghiệm loại cây này. Simonet cũng trồng thử nghiệm trên mảnh đất thuộc làng Bạch Mai. Gần 1.500 mẫu gần đường đi Bắc Ninh cũng được dùng trồng thử nghiệm, cùng với một số nơi khác như Phủ Doãn, Hưng Yên, Hưng Hóa, Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình và Tuyên Quang.

Báo cáo kết quả trồng thử nghiệm ở Hưng Yên, viên Công sứ cho hay, một mẫu đay sản xuất 20 picul[5] xơ, bán cho hãng với giá 3,5 đồng/picul. Phí nhân công tuy hơi cao nhưng lợi nhuận ròng là 60 đồng bạc. Ở đồng bằng châu thổ sông Hồng, không loại cây trồng nào mang lại lợi nhuận cao như thế, ngay cả mía - vốn được coi là loại cây cho lợi nhuận lớn nhất cũng chỉ đạt 35-37 đồng bạc/mẫu. Chính vì thế, Toàn quyền Đông Dương chủ trương phổ biến việc trồng đay ở cả ba kỳ. 

Đến năm 1895[6], các chủ đồn điền đã tính đến việc trồng đay ở Nam Kỳ trên diện rộng, còn ở Bắc Kỳ, đay được gieo trồng chủ yếu ở các tỉnh Bắc Ninh (600 héc-ta), Nam Định, Ninh Bình và Hải Dương. Thời vụ gieo hạt kéo dài từ tháng 3 cho đến cuối tháng 4 ở Trung Kỳ, và từ tháng 4 đến cuối tháng 5 ở Bắc Kỳ.

Trong các năm 1895 và 1896, theo đề nghị của Simonet, đay được trồng thử nghiệm tại khu vực quanh Hà Nội và Đà Nẵng. Tuy nhiên, do hạn hán hoành hành năm 1895 và thời tiết lạnh năm 1896 nên năng suất ở các khu vực trồng thử nghiệm rất thấp. Thêm vào đó, người bản xứ không hào hứng với loại cây canh tác mới trong khi chính quyền buộc phải hỗ trợ kinh phí mua hạt giống để phát miễn phí, khiến cho ý định của Simonet thất bại. Ngày 26/6/1898, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định về tiền thưởng hàng năm nhằm khuyến khích việc trồng đay, cà phê, chè, bông và các loại cây nông sản khác nhưng cũng không thúc đẩy được việc phổ cập canh tác loại cây công nghiệp này.

Đến năm 1901, Eugène Duchemin - đại diện của Saint Frères ở Viễn Đông tái khởi động ý tưởng phổ cập trồng đay ở Bắc Kỳ do nhận thấy tiềm năng phát triển của loại cây này trong điều kiện tự nhiên gần giống với xứ Bengal của Ấn Độ. Ông đề nghị Toàn quyền Đông Dương hỗ trợ các đồn điền ở Phủ Doãn dọc sông Lô.

Báo cáo kết quả trồng thử nghiệm đay ở Thái Bình năm 1902, nguồn: hồ sơ 487 phông Sở Nông Lâm và Thương mại Đông Dương, TTLTQG1.

Toàn quyền Đông Dương gửi công văn cho Thống sứ Bắc Kỳ thông báo về kiến nghị của hãng Saint Frères với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa về việc trông đay ở Bắc Kỳ, nguồn: hồ sơ 78079, phông Thống sứ Bắc Kỳ, TTLTQG1

Tháng 02/1904, hãng Saint Frères đã gửi thư lên Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, đề nghị áp dụng các biện pháp nhằm mở rộng việc trồng đay ở Bắc Kỳ. Ngày 12/4/1904, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định thành lập Ủy ban để xem xét các thể thức và thiết bị do hãng Saint Frères đề xuất trong việc trồng và thu hoạch đay ở Đông Dương. Từ đó, cây đay bắt đầu du nhập và dần trở thành một loại cây công nghiệp trong hoạt động canh tác ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20.

Báo cáo của Duchemin về việc trồng đay giống mua từ Bengal ở Bắc Kỳ năm 1905, nguồn: hồ sơ 78079 phông Thống sứ Bắc Kỳ, TTLTQG1

Một số hình ảnh về trồng đay ở Bắc Kỳ, nguồn:Thư viện Quốc gia Pháp

Cây đay 1-2 tháng tuổi ở Bắc Ninh

Thu hoạch đay ở Bắc Ninh, ảnh của Pitard

Ngâm thân đay ở Bắc Kỳ

 

[1] . Cây đay được đề cập trong bài viết là cây đay công nghiệp, tránh nhầm lẫn với cây rau đay. 

[2] . Hồ sơ 487, Phông Sở Nông Lâm và Thương mại Đông Dương, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1.

[3] . Bang Bengal của Ấn Độ có những đặc điểm tự nhiên khá giống với Đông Dương: đất đai màu mỡ ở châu thổ sông Hằng, sông Hồng và sông Mê Kông, điều kiện khí hậu gần giống, nhân công dồi dào, các thửa ruộng phù hợp với trồng đay - loại cây phù hợp với khí hậu nóng ẩm.

[4] . Theo "Tương lai Bắc Kỳ" (Avenir du Tonkin) số ra ngày 01/5/1895.

[5].  1 picul = 100 cân ta = 60 kg.

[6]. Theo "Canh tác và Công nghiệp đay ở Bengal và Đông Dương, 1895" (Culture et Industrie du jute: Au Bengale et en Indochine, 1895), Timothée Simonet, nhà in F-H Schneider, 1895.

Ngọc Nhàn