09:43 PM 07/10/2025  | 

Cuối thế kỷ XIX, những ngôi chợ mái lá nhường chỗ cho những công trình mang hơi thở phương Tây, đó là hai dãy nhà khung thép lợp tôn ra đời năm 1890, đánh dấu sự xuất hiện của một loại hình kiến trúc mới, bề thế và hiện đại so với các chợ truyền thống. Nhưng chỉ ít năm sau, nhu cầu buôn bán ngày một gia tăng, dòng người đổ về ngày càng đông, khiến hai dãy nhà khung thép nhanh chóng quá tải. Đến năm 1895, hai kiến trúc sư Pháp, Coutel và Berruer, đã đề xuất một ý tưởng táo bạo: dỡ khung sắt từ khu chợ Đồng Khánh, dựng lại tại Đồng Xuân để giảm tải, đồng thời biến khu đất cũ thành một nhà hát kiên cố cho thành phố. Đốc lý Hà Nội khi ấy hoàn toàn đồng tình . Khu chợ Đồng Khánh sau đó thực sự trở thành trường học - một minh chứng cho sự đổi thay trong công năng đô thị.

Một thành phố chuyển mình

Không chỉ dừng ở ý tưởng, chính quyền còn cho tháo dỡ bậc tam cấp, đắp nền, tận dụng vật liệu từ khu chợ cũ để chuẩn bị dựng thêm gian mới tại chợ Đồng Xuân. Những động thái đó phản ánh sự quyết liệt của bộ máy thuộc địa trong việc xây dựng một trung tâm thương mại đúng nghĩa, đáp ứng cả nhu cầu thực tiễn lẫn khát vọng quy hoạch đô thị hiện đại.

Nỗi lo của thành phố: Thuế và nguồn thu ngân sách

Ngày 14/9/1900, trong phiên họp Hội đồng thành phố, đề xuất mở rộng chợ Đồng Xuân được đưa ra. Lý do rất rõ ràng: “Do lượng người mua bán ngày càng đông khiến không gian hiện tại không còn đủ chỗ cho tiểu thương. Chợ là nguồn thu chính trong số các khoản thu gián tiếp của thành phố, nên chợ cần được mở rộng để đáp ứng sự gia tăng nguồn thu[1].”

Đó không chỉ là ngôn ngữ hành chính. Đằng sau lời nói ấy là nỗi lo ngân sách. Ở Hà Nội đầu thế kỷ 20, chợ chính là “huyết mạch tài chính” - mỗi gian hàng, mỗi quầy bán đều đóng góp thuế cho bộ máy thuộc địa. Chợ Đồng Xuân, nhờ quy mô và vị trí, trở thành mắt xích quan trọng trong guồng quay kinh tế đô thị.

Những nhịp thở mới

Đến năm 1901, Đồng Xuân đã có ba dãy nhà khung thép, như ba vòm cánh tay mở ra giữa phố thị. Nhưng ngay sau đó, một dự án mở rộng được vẽ ra: thêm ba dãy chợ mới, mỗi dãy dài 4,8 mét, nối tiếp ba dãy cũ - như ba nhịp thở kéo dài trái tim buôn bán.

Tuy nhiên, dự án “ba dãy mới” ấy không được thực hiện như kế hoạch. Thực tế, đến năm 1902, chỉ dãy khung thứ tư, trị giá 50.000 francs, được dựng lên[2]. Cùng thời điểm đó, tuyến xe điện chạy qua và cây cầu Doumer (Long Biên) khánh thành, kết nối trực tiếp hàng hóa từ các tỉnh về Hà Nội. Đồng Xuân trở thành điểm đến tất yếu cho dòng hàng hoá từ sông Hồng và tuyến đường sắt đổ về.

Cũng trong giai đoạn này, hàng rào chợ được đẩy lùi sát vào bên trong, mở lối cho xe điện, cho hành lang đi bộ, bảo đảm an toàn hơn cho người dân. Một bước đi nhỏ, nhưng phản ánh rõ nét sự thích ứng của đô thị trước làn sóng giao thông hiện đại.

Khi thiên tai thử thách đô thị

Năm 1903, một trận bão lớn đổ bộ vào Hà Nội. Cây cối gãy đổ, nhà cửa hư hại, và khung chợ thứ tư của Đồng Xuân cũng bị tốc mái. Tôn bay, thép nghiêng, chợ trở thành một trong những nạn nhân điển hình của cơn giận dữ thiên nhiên. Nhưng nghịch cảnh ấy cũng là minh chứng cho sức sống của thành phố. Ngay sau đó, công trình được dựng lại, kiên cố hơn, hiện đại hơn, như thể Đồng Xuân phải học cách gồng mình trước cả nhu cầu thương mại lẫn biến động khí hậu.

Bước ngoặt 1917: Từ “chợ lớn” thành biểu tượng kiến trúc

Suốt một thập kỷ đầu thế kỷ 20, dãy chợ thứ năm vẫn chỉ là lời hứa. Người dân Hàng Gạo nhiều lần thắc mắc: vì sao kinh phí đã có, mà công trình vẫn chưa thực hiện? [3] Sắt thép thời chiến đắt đỏ, thành phố buộc phải tìm giải pháp khác.

Năm 1917, một kế hoạch táo bạo được đưa ra:

  • Xóa bỏ chợ Lợn (ở phố Đường Thành), tháo dỡ toàn bộ khung thép, vận chuyển sang dựng thành dãy thứ năm tại Đồng Xuân.
  • Xóa bỏ chợ Gạo (Marché des Graines ở Quảng trường Thương Mại), biến nơi đó thành quảng trường công cộng, còn khung sắt tái sử dụng cho các công trình khác.
  • Trưng mua thêm đất quanh khu vực với chi phí chỉ khoảng 3.000 đồng bạc: một con số khiêm tốn so với hiệu quả kinh tế.

Tại phiên họp tháng 5/1917, Hội đồng thành phố dự kiến sau khi hoàn thành, Đồng Xuân sẽ có 5 dãy nhà khung thép, diện tích 6.800 m², cùng mặt tiền bằng gạch với 5 vòm lớn. Tổng kinh phí lên tới 25.000 đồng bạc, cộng thêm 15.000 đồng bạc cho cải tạo nội thất: mở rộng lối đi, vệ sinh, cấp thoát nước, xây nhà vệ sinh, khu chứa rác, chỗ ở cho nhân viên bảo vệ.

Dự án được chia làm hai gói thầu:

  1. Gói 1: Tháo dỡ khung sắt chợ Lợn, dựng lại tại Đồng Xuân, đổ nền móng bê tông. Hoàn thành trong 3 tháng.
  2. Gói 2: Xây mặt tiền gạch và mái che kiểu bằng bê tông cốt thép. Hoàn thành trong 6 tháng[4].

Tập điều kiện thầu Lô số 1 lập ngày 05/6/1917: Tháo dỡ khung nhà tại chợ Đường Thành dựng lại ở chợ phố Hàng Gạo, xây móng và láng xi măng. Nguồn: TTLTQGI

 

Tập điều kiện thầu Lô số 2 lập ngày 05/6/1917: Xây dựng mặt tiền và hiên bằng bê tông cốt thép. Nguồn: TTLTQGI

Nhà thầu Leroy, người từng có kinh nghiệm với nhiều công trình thuộc địa, đã trúng thầu. Cuối năm 1917, Đồng Xuân khoác lên mình diện mạo mới: vững chãi, hiện đại và xứng tầm với vị thế trung tâm buôn bán lớn nhất Bắc Kỳ.

Bản vẽ mặt tiền chợ Đồng Xuân lập ngày 05/6/1917. Nguồn: TTLTQGI

 

Một ngôi chợ vượt khỏi chức năng buôn bán

Đầu thế kỷ 20, Đồng Xuân không còn đơn thuần là nơi mua bán. Nó trở thành bản đồ sống của Hà Nội – nơi quy hoạch đô thị, nhu cầu thương mại, thách thức thiên tai và cả tham vọng thuộc địa giao thoa. Mỗi dãy khung thép, mỗi vòm gạch, mỗi nhịp mái tôn là một mảnh ghép kể lại câu chuyện một thành phố đang trưởng thành.

Từ hai dãy nhà đầu tiên năm 1890 đến năm dãy khung năm 1917, chợ Đồng Xuân đã trải qua đủ mọi sóng gió - từ tranh chấp tài chính, thiên tai, đến những tranh luận trong Hội đồng thành phố. Nhưng chính nhờ vậy, nó mới trở thành biểu tượng: một ngôi chợ không chỉ bán mua, mà còn phản chiếu toàn bộ nhịp sống, khát vọng và ký ức của Hà Nội đầu thế kỷ 20.

 

[1] TTLTQGI|NAC1/RST3630.

[2] Theo báo cáo ngày 10/01/1902, chính quyền Hà Nội điểm lại những công trình tiêu biểu dưới thời Toàn quyền Paul Doumer (1897 - 1901): một khung nhà thứ hai trị giá 11.000 francs được dựng tại chợ phố Huế và một khung thép thứ tư trị giá 50.000 francs cho chợ Đồng Xuân (Gouvernement général de l’Indo-Chine, Ville de Hanoi , Tonkin, p.70, 1905.)

[3] L’Avenir du Tonkin, 20/01/1907, p.2.

[4] TTLTQGI|NAC1/RST75638.

Đỗ Hoàng Anh