07:59 PM 06/10/2025  | 

Trong lòng phù sa sông Hồng, nơi thuyền bè từng neo đậu, nơi tiếng rao chan hòa với tiếng mõ chợ, cái tên “Kẻ Chợ” ra đời, mộc mạc mà chất chứa hạt mầm của một đô thị phồn thịnh. Không phải ngẫu nhiên, từ mùa thu năm 1010 khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, mảnh đất này đã trở thành trái tim giao thương của Đại Việt.

Từ Kẻ Chợ đến Thăng Long: ngàn năm mạch sống thương nghiệp

Kẻ Chợ không chỉ là chốn mua bán tấp nập, mà còn là biểu tượng cho nền kinh tế truyền thống Việt Nam: thủ công, buôn bán, đậm tính cộng đồng và sáng tạo. Qua từng triều đại phong kiến, rồi đến thời kỳ Pháp thuộc, bức tranh đô thị khoác lên mình tấm áo mới: từ những phiên chợ đầu làng, tới phố nghề sầm uất và cuối cùng kết tinh thành biểu tượng văn hoá ngàn năm.

Mùa hạ năm Giáp Tý (1804), khi nhà Nguyễn xây dựng thành Thăng Long theo kiểu Vauban, Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành đã cho lập một ngôi chợ lớn ngay cửa Đông thành[1], gần phường Đồng Xuân. Từ dấu mốc ấy, chợ không chỉ là điểm giao thương mà còn là “phòng khách tập thể” của kinh thành, nơi mọi tin tức, mọi sự kiện đều khởi đầu từ một cái gật đầu, một câu chào nơi góc chợ.

Bản đồ Hà Nội năm 1885, vị trí phố “Chợ Nhớn” - khu vực Chợ chính Đông thành Hà Nội. Nguồn: BNF

Cổng phía Đông thành Hà Nội, nhìn từ bên ngoài. 1885. Nguồn: DHA Collection

Cổng phía Đông thành Hà Nội, nhìn từ bên trong Thành. 1889. Nguồn: DHA Collection

Chợ lớn lên cùng nhịp thở của phố phường, mỗi gian hàng như một mạch máu của đô thị, mỗi tiếng rao như nhịp đập của thành phố ngàn năm. Và trong mạch chảy ấy, cuối thế kỷ 19, khi người Pháp quy hoạch lại Hà Nội, chợ Đồng Xuân ra đời - một điểm nhấn hiện đại trong bản hòa tấu xưa cũ, kết nối truyền thống Kẻ Chợ dân gian với Thăng Long kinh kỳ.

Chợ Đồng Xuân - giữ hồn phố thị

Cuối thế kỷ 19, Hà Nội bước vào chương mới của đô thị hoá. Ngày 17/12/1887, trong phiên họp của Hội đồng thành phố[2], những vấn đề như lò mổ, chợ, cống rãnh, rác thải được đưa ra bàn thảo, đặt nền móng cho một trật tự đô thị hiện đại. Hai năm sau, năm 1889, chợ Đồng Xuân được xây dựng, nằm ở vị trí không xa chợ Cầu Đông xưa hay ngôi chợ ở cửa Đông và gần bến sông Hồng. Chợ lớn dần và thu hút hoạt động thương mại của Hà Nội và vùng phụ cận.

Đồng Xuân không phải để thay thế “Kẻ Chợ” xưa cũ, mà là cách tổ chức lại dòng chảy thương nghiệp đã cuộn trào tự phát qua bao thế kỷ. Nó là nhịp đập của Hà Nội, nơi “trên bến dưới thuyền”, nơi chữ “chợ” vượt khỏi nghĩa mua bán, trở thành linh hồn của cộng đồng.

Bên Sông Hồng ở Hà Nội. Nguồn: DHA Collection

Khi đường ray tàu điện rẽ qua phố, khi cầu Doumer vắt ngang sông Hồng, khi tuyến thương mại Đông Dương mở tới Vân Nam, Hải Phòng, Đồng Xuân đã trở thành trung tâm thương mại lớn nhất Bắc Kỳ. Đó là đầu mối phân phối hàng hoá, sợi dây nối liền nông thôn và thành thị, truyền thống và hiện đại.

Nhưng trên hết, Đồng Xuân là ký ức tập thể về một Hà Nội mộc mạc, náo nhiệt mà bền bỉ. Giữa những gian hàng chen chúc, người ta không chỉ mua bán, mặc cả, mà còn kết bạn, uống trà, thậm chí se duyên. Đồng Xuân vì thế là một “gương mặt” khác của Hà Nội: không tráng lệ như Nhà hát Lớn, không uy nghiêm như Văn Miếu, nhưng nhọc nhằn, sinh động và chân thực.

Từ một Kẻ Chợ bên bến sông đến “Chợ Lớn” giữa lòng phố cổ, Đồng Xuân đã trở thành nơi quá khứ và hiện tại gặp gỡ nhau mỗi sớm mai. Cho đến hôm nay, tiếng rao, mùi quẩy nóng, âm thanh xe kéo, khói hương từ những bàn thờ nhỏ nép nơi góc chợ vẫn ngân vang, như một nốt trầm giữ hồn phố thị - để Hà Nội mãi là Hà Nội thân thương.

Phía trước chợ Đồng Xuân khoảng giữa thế kỷ 20. Nguồn: DHA Collection

 

[1] Quốc sử di biên, tr.59.

[2] Biên bản phiên họp Hội đồng thành phố ngày 17/12/1887 (L’Avenir du Tonkin).

Đỗ Hoàng Anh