Người xưa thường đốt pháo vào một số dịp vui như cưới hỏi, tân gia, đặc biệt là ngày Tết để không khí năm mới thêm tưng bừng, náo nhiệt. Lượng pháo tiêu thụ khá nhiều. Theo một báo cáo của Tri huyện Hải Hậu ngày 09 tháng 4 năm 1914, dân ta thường mua pháo của người Hoa, mỗi năm lên đến hàng triệu đồng Đông Dương[1]. Thông tin này trùng khớp với nhận định của tác giả Trần Trọng Kim và các cộng sự năm 1928: "Người Việt Nam đốt pháo nhiều lắm, nhưng xưa nay pháo vẫn mua ở Tàu sang. Nếu ta làm lấy được mà đốt thì thực là một mối lợi to"[2]. Một thống kê của Tòa Đốc lý Hà Nội năm 1934 cũng cho biết ở thủ phủ Đông Dương thời đó có 140 cửa hàng bán lẻ và bán buôn pháo, đa số của người Hoa, tập trung nhiều ở khu vực phố cổ.
Đầu thế kỷ XX, ở Bắc Kỳ có một số địa phương sản xuất pháo. Những năm 1927-1928, tỉnh Hưng Yên có 4 nhà làm pháo ở các huyện Văn Lâm, Khoái Châu và thị xã Hưng Yên[3]. Tỉnh Nam Định thống kê được 19 hộ làm pháo với số lượng thợ không quá 7 người[4]. Số liệu cho tỉnh Bắc Ninh là 24 hộ, tập trung chủ yếu ở Thị Cầu[5]. Tuy nhiên, đông đảo nhất phải kể đến tỉnh Hà Đông, với tổng số 115 xưởng và 811 thợ. Đứng đầu là làng Bình Đà, phủ Thanh Oai với 31 xưởng và 247 thợ[6].
Phương pháp làm pháo được mô tả trong sách "Cách trí giáo khoa thư lớp sơ đẳng" của Trần Trọng Kim và các cộng sự như sau:
"Làm pháo phải dùng hai thứ thuốc: một thứ để làm ngòi và một thứ để nhồi (cuốn) vào pháo. Hai thứ thuốc ấy cũng làm bằng diêm sinh, than và lưu hoàng trộn lẫn với nhau, chỉ khác cân lạng mà thôi. Dùng lưu hoàng làm thuốc pháo thì trước phải tán nhỏ ra.
Than dùng làm thuốc pháo thì người Khách dùng gỗ thông (sinh mộc hay là sam mộc). Ở Nam Kỳ, người ta đã thử dùng thân gỗ gạo và gỗ xoan thì làm cũng được.
Nghề làm pháo cũng lắm công việc: như là cuộn giấy, nhồi đất, nhồi thuốc, thắt thành cái pháo, giùi lỗ, tra ngòi, tết lại thành tràng, phong lại từng bánh…"
Tranh minh họa các loại pháo trong sách của Trần Trọng Kim và các cộng sự (nguồn: TVQGP)
Nhận thấy lợi nhuận của nghề này, rất đông người Âu xin được mở xưởng pháo, đặc biệt là trong những năm 1930-1940. Hai xưởng pháo lớn nhất của người Âu ở Bắc Kỳ nằm ở Đáp Cầu và Bình Đà. Xưởng Bình Đà thuộc sở hữu của một công ty hợp danh gồm gồm các ông Thibault, Tran Van Huy tức Tiên Long, Cai Van Minh tức Ly Minh và Uông Văn Bài. Xưởng chuyên sản xuất và buôn bán pháo nổ hiệu "Dzanh Linh". Ông Thibault lừa dân chúng khu vực Bình Đà rằng mình được nhà nước cho nắm độc quyền sản xuất và kinh doanh pháo. Vì vậy, ông này đã bán một phần thuốc pháo cho người dân và mua lại pháo thành phẩm của họ với giá rẻ rồi dán nhãn lên đem tiêu thụ để thu lợi nhuận. Biển hiệu kho pháo tại Hà Nội của công ty Thibault ghi những thông tin sau:
DZANH LINH THƯƠNG CỤC
ĐẠI LÝ ĐỘC QUYỀN
SƯỞNG CHẾ TẠO TẠI BÌNH ĐÀ[7].
Không thể phủ nhận những niềm vui mà tiếng pháo mang lại cho người dân, nhưng mặt khác nghề pháo cũng là một nỗi ám ảnh bởi nó gắn liền với nhiều vụ tai nạn đau thương. Tháng 01 năm 1932, xảy ra một vụ nổ lớn tại xưởng Đáp Cầu, Bắc Ninh, khiến 8 người thợ bản xứ thiệt mạng và 1 người khác bị thương nặng. Nguyên nhân được cho là xuất phát từ sự bất cẩn của một thợ làm pháo. Tuy nhiên, báo cáo điều tra sau đó cho biết chủ xưởng thuê lao động trong độ tuổi khá nhỏ (14 đến 17) và sự bất cẩn ở độ tuổi này hoàn toàn có thể kéo theo những vụ tai nạn khác. Tháng 10 năm 1939, ghi nhận một vụ nổ khác tại xưởng Bình Đà của ông Thibault, khiến một người thợ bản xứ tử vong. Trước đó, các đợt kiểm tra xưởng Bình Đà đều cho thấy nhiều vi phạm về an toàn lao động và phòng chống cháy nổ[8].
Nhận thấy những mặt trái của việc đốt pháo, năm 1934, nhà báo Lê Tràng Kiều đưa ra nhận định: "Lại còn cái thói cứ đến tết là đốt không biết bao nhiêu là pháo mà phần nhiều là mua của Tầu cả, thực là gánh vàng đi đổ sông Ngô. Bây giờ có pháo của Tây làm, đốt khét lẹt: rõ mua lấy cái giại"[9].
Sách "Câu chuyện ăn Tết" của Ái Nhơn cũng phê phán việc đốt pháo:
Đốt pháo làm chi lớp bép...đùng!
Tốn tiền vô ích, lại hao công!
Rủi ro nhà cháy, tay chơn tét;
Vong mạng nhiều người có uổng không?[10]
Tranh "Ngày tết đốt pháo" trong sách Luân lý giáo khoa thư xuất bản năm 1925 (nguồn: TVQGP)
Đốt pháo vốn là một phong tục truyền thống tốt đẹp nhưng sự lãng phí và việc không tuân thủ các quy định về an toàn khiến pháo trở thành một hiểm họa của xã hội. Vì vậy, ở Việt Nam, việc sản xuất, vận chuyển và đốt các loại pháo nổ đã bị cấm từ những năm 1990.
[1] RNĐ364
[2] Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận (1928), Cách trí giáo khoa thư lớp sơ đẳng, Nha Học chính Đông Pháp xuất bản, tr.106
[3] Danh sách các hộ làm pháo tỉnh Hưng Yên tính đến tháng 7/1928, RST70794-6
[4] Tổng hợp theo các báo cáo của tỉnh Nam Định năm 1927-1928, RNĐ365
[5] Danh sách các hộ làm pháo tỉnh Bắc Ninh tính đến tháng 7/1928, RST70794-6
[6] Danh sách các hộ làm pháo tỉnh Hà Đông tính đến tháng 7/1928, RST70794-6
[7] RST70794-6. Chúng tôi giữ nguyên chính tả trong tài liệu.
[8] RST70.801-11
[9] Lê Tràng Kiều (1934), Tết, Dán câu đối trong Tập văn xuân năm Giáp Tuất, Vị Giang Văn khố, tr.4
[10] Ái Nhơn (1928), Câu chuyện ăn Tết, Nhà in Thiệt Hành, tr.6
Bùi Hệ