Cung Càn Thành là cung Vua ở, nằm trong khu Tử cấm thành Huế. Trong cung có điện Càn Thành còn gọi là điện Kiền Thành. Trước năm 1811, điện Càn Thành có tên là điện Trung Hòa, bắt đầu xây dựng ngày Kỷ mùi, tháng 4, năm Gia Long thứ 10 (1811) và hoàn thành vào tháng 7 trong cùng năm[1]. Ban đầu, trong Đại Nội chưa đặt tên cho cung, đến năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), “từ điện Trung Hòa trở ra đằng trước là cung Càn Thành, đằng sau là cung Khôn Thái. Từ điện Trung Hòa và điện Cần Chánh cùng với phối điện hai bên tả hữu đến hành lang giải vũ, đường, các, chung quanh đều thuộc về cung Càn Thành. Các điện, đường, viện, vũ ở đằng sau điện Trung Hòa đều thuộc cung Khôn Thái” [2].
Tháng 8 năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), “đổi tên điện Trung Hoà ở cung Kiền Thành là điện Kiền Thành”. Nguồn: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên
Tháng 8 năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), “đổi tên điện Trung Hoà ở cung Kiền Thành là điện Kiền Thành (điện Trung Hoà là tên đã có từ cổ, nay không muốn lại bắt chước, nên đổi đi)” [3]. Điện Càn Thành nằm ngay sau lưng điện Cần Chánh (nơi Vua thiết triều) trong khu Tử cấm thành, phía trước điện Khôn Thái (chỗ ở của Hoàng quý phi). Phía trước điện, bên phải có điện Trinh Minh (nơi ở của các bà phi), bên trái có điện Quang Minh (nơi ở của Đông cung Hoàng tử). Ngôi điện này là nơi ăn ngủ của Vua triều Nguyễn. Khi Vua băng hà, đám quàn tại đây cho đến khi đưa. Sách Đại Nam thực lục chính biên ghi chép: ngày Đinh mùi tháng Mười hai năm Gia Long thứ 18 (1819) “Vua băng ở điện Trung Hòa. Thọ 58 tuổi”[4]. Châu bản triều Nguyễn còn lưu bản khải của Bộ Lễ ngày mồng 2 tháng Giêng năm Minh Mệnh thứ 22 (1841) ghi chép nghi lễ dâng cơm cúng: “Nay phụng Hoàng đế đại hành mất, mỗi ngày dâng cơm cúng vào giờ Ngọ. Thần bộ soạn đủ theo nghi tiết, vâng được huấn thị: Từ nay vâng sắc, vào giờ Thân mỗi ngày tăng thêm 1 lễ điểm tâm. Do đó đã vâng chiếu mà làm. Nay chúng thần thiết nghĩ linh cữu vâng đặt ở điện Càn Thành, nơi thâm nghiêm. Nếu như mỗi ngày bày biện những đồ binh khí ở cung Vua, Bộ ty tán xướng ra vào nhiều lần (thần) cảm thấy là chưa thật nghiêm trang, xin nên vào buổi sớm mỗi ngày và vào giờ Thân thì các lễ điểm tâm bày biện như nghi lễ. Các Hoàng đệ công, Hoàng đệ, Hoàng thân công đều đến bái. Còn dâng cơm giờ Ngọ và buổi tối xin cho Cung giám chấp sự làm lễ các khoản bày biện những đồ binh khí ở cung Vua và tán xướng xin nên giảm bớt để được nghiêm trang đơn giản. Các Hoàng đệ công, Hoàng đệ, Hoàng thân công cũng xin miễn hầu bái, buổi sớm mỗi ngày định giờ đến bái 1 lần. Sau khi linh cữu đặt yên ở cung Khánh Ninh thì các ông đến bái. Còn ngày thường xin nên miễn cho”[5].
Thể hiện tấm lòng chí hiếu với Vua cha, các Vua triều Nguyễn đều để tang hết ba năm. Đến kỳ mãn phục, ngự điện Càn Thành và Cần Chánh để nghe chính sự theo như quy chế. Bản tấu của Bộ Lễ ngày 28 tháng Mười một năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) ghi chép “Vâng xét năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) gặp lễ đại tang Thánh tổ Nhân Hoàng đế, tấm lòng kính hiếu của Hoàng thượng ta âm thầm suốt trong 3 năm thực là rất hợp tình hợp lẽ. Nay đã đến kỳ bỏ áo tang, các việc lớn trong nhà có liên quan đến tai mắt thiên hạ, xin cho Khâm thiên giám chọn trước ngày tốt vào tháng Giêng sang năm, sau lễ Thăng phụ, Hoàng thượng sẽ đến ngự tại điện Càn Thành và Cần Chánh trông coi chính sự, đã an ủi tấm lòng chiêm ngưỡng của thần dân”[6].
Châu bản triều Nguyễn đã dẫn chúng ta ngược dòng lịch sử trở lại với quá khứ, để hiểu thêm về điện Càn Thành còn là nơi tôn kính tàng trữ nhiều báu vật như các đồ sứ quý hiếm cũng như các hạng bảo tỷ bằng vàng và bằng ngọc như Đại Nam thọ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ, Tề gia chi bảo; kim sách; tráp chứa bản chính ngọc phả bằng vàng; các bộ sách quốc sử như Minh Mệnh chính yếu, Thực lục các kỷ, Liệt truyện; công văn, châu bản, đồ bản. Một minh chứng được khai thác từ Châu bản triều Nguyễn là bản phụng chỉ của Hoàng Kim Xán ngày 16 tháng Năm năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) ghi chép: “ba năm một lần toản tu Tông phả, việc xong, 1 bản chính cất ở tầng thứ trong tủ ngọc điệp ở điện Trung Hoà”[7].
Sách sử ghi chép điện Càn Thành còn là nơi Lễ ngày thường Vua ngự điện, nghe chính: “phàm hàng tháng, cứ ngày lẻ, Vua ngự điện Cần Chánh nghe chính, hoặc ngày lẻ, ngày chẵn, Vua ngự điện riêng triệu các quan vào hỏi: các quan văn, vũ đều theo ban thứ vào hầu”[8]. Vào giai đoạn cuối của triều Nguyễn, ngôi điện này được sử dụng với chức năng là phòng khánh tiết quốc gia, nơi tổ chức các buổi yến tiệc và ca múa trong những dịp khánh hỷ của Hoàng gia và triều đình (thường là sau khi tổ chức lễ Đại triều). Bản tấu ngày mồng 5 tháng Hai năm Khải Định thứ 2 (1917): “Chiều hôm qua quý Toàn quyền Đại thần đến Kinh. Đã vâng lệnh bàn bạc, lấy 8 rưỡi sáng mai vào yết kiến, đặt nghi lễ đại triều tại điện Thái Hoà. Sau lễ chúc mừng đáp tạ xong, xin mời quý Đại thần vào điện Cần Chánh đãi rượu 1 lát rồi đến Tây cung thăm hỏi. 3 rưỡi chiều Hoàng thượng ngự giá, khoảng độ 4 giờ đến toà khâm sứ thăm lại. Đêm đó đãi rượu tại điện Càn Thành”[9].
Bản tấu của Bộ Quốc dân giáo dục ngày 15 tháng Chín năm Bảo Đại thứ 18 (13/10/1943): “xin mượn các công văn, châu bản, đồ bản, tranh ảnh, thư họa và những tài liệu sử ký khác hiện đặt tài điện Càn Thành và lầu Nội các để trưng bày nhân dịp khánh thành phòng Bảo tàng Lịch sử”. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I
Châu bản triều Nguyễn là những trang sử liệu gốc biên niên ghi chép về những năm tu bổ, sửa chữa điện Càn Thành: Minh Mệnh thứ 10 (1829), Minh Mệnh thứ 16 (1835) thay đòn nóc và các rui mè do có nhiều chỗ bị mọt hỏng; năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) Đốc công Vũ khố làm hai giường Long vân, một giường Bát bảo, tranh tráng men, rèm cuốn treo, câu đối để bầy ở điện; năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) chế tạo các bình phong bằng kính; năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) sửa chữa cột trụ mặt trước nhà tránh nóng ở mặt trước, sau và hiên đông, trong đó có các xà bị cong oằn và cột ở gian một bên trái, một gian bên phải phía sau cũng có bị mọt; Tự Đức thứ 2 (1849), Tự Đức thứ 10 (1857) dựng nhà tránh nắng, cửa kính và hàng rào trúc; Tự Đức thứ 21 (1868) Thái giám Dương Uy, Đại thần Đoàn Thọ và quan Bộ Công Nguyễn Hữu Lập đem quan viên lính thợ tất cả 245 người vào điện tiến hành tu sửa dãy hành lang dài gồm 6 gian hai chái, gỗ ngói bị hư nát từ bên hữu điện Càn Thành tiếp với điện Trinh Minh; Tự Đức thứ 22 (1869) tu sửa và xây thêm các toà sở Gia Tường; năm Tự Đức thứ 26 (1873), sửa chữa hiên tránh nắng phía đông, năm Tự Đức thứ 32 (1879) chuyển cột, ván bằng lim từ Thanh Hóa, Nghệ An về Kinh sửa chữa điện dự trữ các loại gỗ lim để tu sửa điện; Duy Tân thứ 3 (1909) dựng đã lâu năm, ngói gỗ đều hư hỏng; Duy Tân thứ 4 (1910) cho nạo vét cống thoát nước ở trước sân bị bùn đất, ứ đọng lâu ngày nên nước không tiêu thoát được, sửa chữa ngói lợp, gỗ lạt bị hư hại, dột nát quá nhiều do đã lâu năm; Khải Định thứ 2 (1917), chi cấp 1.655 đồng 1 hào để tu bổ những nơi bị dột nát, hư hỏng; các năm Bảo Đại thứ 10 (1935), Bảo Đại thứ 18 (1943), Bảo Đại thứ 19 (1944), tu bổ nhiều chỗ đã hư hỏng[10].
Với vị trí là nơi ở của Vua nên cung Càn Thành nằm trong Tử cấm thành được bảo vệ nghiêm ngặt, không chỉ thường dân, ngay cả đến các quan lại, nếu không phải phận sự hoặc không được Vua gọi vào cũng ít khi được đặt chân đến. Bởi đặc điểm đó, sinh hoạt bên trong ngôi điện này từ trước đến nay vẫn là những điều ít được biết tới. Tháng Hai năm 1947, điện Càn Thành đã trở thành phế tích sau khi bị đốt, chỉ còn sót lại phần nền móng. Ngày nay, ngôi điện này cùng với một số cung điện trong Tử cấm thành, đã trở thành nơi dừng chân cho mọi du khách đến chiêm ngưỡng dấu tích vàng son một thuở, để rồi có thể hồi tưởng những đóng góp của triều Nguyễn đối với nền văn hóa dân tộc.
[1] Đại Nam thực lục. Tập 1. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 867, 872.
[2] Đại Nam thực lục. Tập 3. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 504.
[3] Đại Nam thực lục. Tập 5. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 558.
[4] Đại Nam thực lục. Tập 1. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 1068.
[5] TTLTQG 1, Châu bản triều Nguyễn.
[6] TTLTQG 1, Châu bản triều Nguyễn.
[7] TTLTQG1, Châu bản triều Nguyễn.
[8] Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ. Tập 6. NXB Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế, 1993, tr.73.
[9] TTLTQG1, Châu bản triều Nguyễn.
[10] TTLTQG 1, Châu bản triều Nguyễn.
Thu Thủy - Phòng Phát huy Giá trị Tài liệu