Trong lịch sử, kinh thành Thăng Long xưa có cấu trúc gồm 3 vòng thành, vòng ngoài cùng được gọi là thành Đại La vừa làm chức năng thành lũy bảo vệ toàn bộ khu vực kinh thành (kể cả vùng cư trú của nhân dân), vừa là đê ngăn lũ lụt. Mặt ngoài thành Đại La được bao bọc bởi 3 con sông: sông Nhị, sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Không chỉ bao bọc mà cả 3 con sông này còn len lỏi vào tận bên trong kinh thành. Phía ngoài thành Đại La là những vùng sông nước, nhiều nơi còn lầy lội, phía trong thành cũng có nhiều hồ ao với mạng lưới khá dày đặc. Chính vì vậy mà nạn lụt thường xuyên xảy ra, đe dọa cuộc sống của cư dân trong kinh thành[i].
I. THỜI NGUYỄN[ii]
Theo thống kê chi tiết, Thăng Long - Hà Nội đã phải chịu tới 24 trận lụt do bão và do các con sông (chủ yếu là sông Nhị) gây ra vào các năm:
Số TT |
Năm có lụt bão |
Số TT |
Năm có lụt bão |
1 |
Tân Sửu (1121)[iii] |
2 |
Ất Dậu (1165)[iv] |
3 |
Bính Thân (1236)[v] |
4 |
Mậu Tuất (1238)[vi] |
5 |
Quý Mão (1243)[vii] |
6 |
Ất Sửu (1265)[viii] |
7 |
Canh Ngọ (1270)[ix] |
8 |
Nhâm Thìn (1352)[x] |
9 |
Ất Mùi (1475)[xi] |
10 |
Tân Dậu (1501)[xii] |
11 |
Quý Dậu (1513)[xiii] |
12 |
Canh Ngọ (1630)[xiv] |
13 |
Tân Mùi (1631)[xv] |
14 |
Giáp Tý (1684)[xvi] |
15 |
Kỷ Dậu (1729)[xvii] |
16 |
Quý Tỵ (1773)[xviii] |
17 |
Kỷ Tỵ (1809)[xix] |
18 |
Tân Mùi (1812)[xx] |
19 |
Canh Dần (1831)[xxi] |
20 |
Giáp Ngọ (1834)[xxii] |
21 |
Canh Tuất (1850)[xxiii] |
22 |
Đinh Tỵ (1857)[xxiv] |
23 |
Nhâm Tý (1858)[xxv] |
24 |
Tân Mùi (1871)[xxvi] |
Những trận lụt do sông Nhị gây ra đã nhiều lần khiến nước sông tràn vào kinh thành, gây hư hại cho thành Đại La và làm ngập lụt các cung Lệ Thiên, hành cung Thưởng Xuân. Phố phường Thăng Long thường xuyên chìm trong biển nước, dân cư phải di chuyển bằng thuyền, các điện đình bị ngập sâu. Đặc biệt, ở khu vực cửa Nam, nước lũ đổ về cuồn cuộn như thác, khiến nhiều người thiệt mạng. Lũ lụt cũng làm vỡ nhiều đoạn đê ở phường Cơ Xá (nay là Phúc Xá), phường Yên Hoa (nay là Yên Phụ), cùng các xã Yên Duyên, Khuyến Lương (huyện Thanh Trì), có nơi nước ngập tới một thước, khiến ruộng đồng bị nhấn chìm, thóc lúa thất thoát và đời sống nhân dân rơi vào cảnh đói kém.
Đặc biệt, trận lũ lịch sử xảy ra tại Bắc Kỳ vào tháng 6 năm Tân Mùi (1871) đã khiến cho “đê ở nhiều địa phương như Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định đều bị vỡ. Bảy huyện quanh Hà Nội chịu thiệt hại nặng nhất là Tiên Phong, Thạch Thất, Mỹ Lương, Yên Sơn, Phúc Thọ, Bất Bạt, Tùng Thiện. Hậu quả của trận lụt và vỡ đê năm đó đã khiến nhân dân nhiều nơi chết đói, số khác bỏ làng đi xiêu tán khắp nơi”[xxvii].
Để giải quyết tình trạng ngập lụt, triều đình đã thực hiện nhiều biện pháp như phái biền binh khởi công bồi đắp (ngoài cắm cọc gỗ, bên trong đổ đất đá để ngăn không cho nước sông xói lở vào sát chân thành); xuất tiền để thuê dân phu làm kè sông mới; giảm giá gạo bán cho dân vùng bị lụt để chống đói; xuất gạo trong kho chia ra để chẩn cấp; lui hạn thu thuế về mùa hạ, hoãn lấy lính, yêu cầu quan sở tại tìm cách đối phó, đồng thời cho giảm thuế thiếu và thuế ruộng bỏ hoang, thuế sản vật, thuế đinh...; giáng cấp có thứ bậc khác nhau đối với các quan tỉnh, phủ, huyện các địa phương bị ngập, lụt vì lơ là trách nhiệm đối với các con đê nơi mình phụ trách. Biện pháp khẩn cấp nhất mà triều đình đã thực hiện là cho phá 11 đoạn đê công ở các huyện Yên Sơn, Mỹ Lương và một đoạn đê tư thuộc huyện Thạch Thất nhằm tránh thiệt hại cho Hà Nội trong trận lũ lịch sử xảy ra tại Bắc Kỳ vào tháng 6 năm Tân Mùi (1871).
Mặc dù triều đình nhà Nguyễn quan tâm nhiều tới việc đắp đê và bảo vệ đê điều nhưng vấn đề này vẫn không được giải quyết triệt để như mong đợi. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, như thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các địa phương, do điều kiện thời tiết, thiên tai, do sự lơ là của quan lại địa phương,... các đê đắp lên cứ vỡ liên miên, đặc biệt là đê sông Nhị. Vì vậy thời Nguyễn, Bắc Thành nói chung, tỉnh Hà Nội nói riêng không ít lần phải chịu cảnh “nước trắng kéo dài”. Đó cũng là một trong những bất lực của triều đình nhà Nguyễn ở bối cảnh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đang suy yếu.
II. THỜI CẬN ĐẠI
Những năm cuối cùng của thế kỷ XIX, Hà Nội tràn ngập trong nhiều sự kiện bi thương. Ngày 20-11-1873, quân Pháp tấn công thành Hà Nội lần thứ nhất. Mặc dù nhân dân Hà Nội đã anh dũng chiến đấu và phối hợp với quân triều đình nhưng do chênh lệch lực lượng quá lớn nên quân Pháp đã chiếm được thành Hà Nội.
Hai năm sau, vào ngày 11-01-1875, triều Nguyễn buộc phải ký kết một thỏa ước với Pháp. Theo thỏa ước này, Pháp được quyền sở hữu một khu đất phía đông - nam thành phố để lập thành khu Nhượng địa được gọi là Đồn Nam (tức Đồn Thủy)[xxviii]. Tháng 10-1875, Pháp bắt đầu khởi công xây dựng các công trình kiên cố trên khu Nhượng địa, chính thức mở đầu thời kỳ xây dựng Hà Nội trở thành “Thủ đô của Bắc Kỳ”, “Thủ đô của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp”.
Sáu năm sau, vào đêm ngày 5 rạng ngày 06-10-1881, khu Nhượng địa lần đầu nếm mùi một cơn bão lớn tràn qua Hà Nội. Cơn bão này đã cuốn phăng nhiều ngôi nhà, cây cối trong khu Nhượng địa, gây thiệt hại khoảng từ 7.000 đến 8.000 frs Pháp[xxix].
Chưa dừng lại ở đó, trận lũ xảy ra ở Hà Nội vào năm 1884 đã cuốn trôi bờ đất của khu Nhượng địa một khoảng rộng 60 mét và dài 3km vì khu Nhượng địa được xây dựng ở phía đông - nam thành phố, ngay giáp bờ sông Hồng, trong lịch sử nhiều lần đã bị ngập lụt hoặc nước lũ tàn phá[xxx].
Một năm sau, trận lũ năm 1885 ở Hà Nội tiếp tục cuốn trôi khoảng vài ngàn mét khối đất của khu Nhượng địa. Các tòa nhà công sở gồm tòa Tổng Trú sứ, dinh Tổng Tư lệnh, Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu... gần như bị đổ sụp xuống sông Hồng[xxxi]. Thiên tai đã cuốn phăng nhiều nỗ lực của quân đội Pháp ở khu Nhượng địa khiến cho họ phải nghĩ tới những giải pháp chống lũ lụt cho thành phố Hà Nội.
Dưới đây là những biện pháp mà chính quyền thuộc địa đã thực hiện ở Hà Nội.
1. Thiết kế hệ thống phòng lũ bảo vệ khu Nhượng địa
Việc đầu tiên được quân đội Pháp thực hiện là thiết kế hệ thống phòng lũ để bảo vệ khu Nhượng địa. Sau trận lũ lớn năm 1884, kỹ sư Pavillier (phụ trách Sở Cầu đường thuộc cơ quan Công chính Sài Gòn) được điều ra Hà Nội để nghiên cứu vấn đề này. Pavillier đã thiết kế một hệ thống phòng chống lũ bằng 2 cách: trực tiếp (cho ốp đá trên một móng vững chắc chạy dài 400m) và gián tiếp (đẩy dòng chảy từ bờ phải sang bờ trái nhờ một con đê dọc sông được xây dựng ở phía phía trên thành phố).
Năm 1885, các công trình trong thiết kế của Pavillier bắt đầu được thi công. Theo André Masson[xxxii] thì đá được lấy từ công trường đá Kẻ Sở cách Hà Nội 89km về phía nam và hơn 8.000m khối đá đã được vận chuyển đến Hà Nội. Con đê thượng lưu cũng được hoàn thành trước mùa lũ năm 1885, do đó dòng chảy sông Hồng[xxxiii] đã thay đổi, không còn chảy xối vào khu Nhượng địa như trước nữa. Dần dần, một dải cát đã hình thành và dòng sông đã cách xa khu Nhượng địa. Tuy nhiên, việc xây kè và đắp móng đá đã dẫn tới một kết quả không mong muốn, đó là đẩy nhanh việc hình thành bãi cát bồi khiến cho các bến tàu ngày càng xa bờ. Thêm vào đó, dòng chảy bị đẩy sang phía tả ngạn đã cuốn đi một khối lượng đất đáng kể vào mỗi mùa nước nổi.
Một vấn đề nan giải khác buộc quân đội Pháp và chính quyền thuộc địa ở Đông Dương phải quan tâm và tìm cách giải quyết, đó là tình trạng ngập úng ở khu Nhượng địa trong các năm 1897-1898. Trung tướng Bichot, Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương đã nhiều lần phải gửi công văn cho Toàn quyền Đông Dương vào các ngày 06-11-1897, ngày 14-3 và 13-8-1898 để phản ánh về tình trạng thoát nước kém ở khu nhượng địa và đề nghị cấp kinh phí xây dựng cống thoát nước cho khu vực này[xxxiv].
Trong các năm từ 1887 đến 1945, để khắc phục những thiệt hại do lũ sông Hồng gây ra cho Hà Nội, chính quyền thuộc địa tập trung chủ yếu vào các biện pháp như xây kè, đê bao quanh thành phố và xây dựng hệ thống thoát nước cho thành phố.
2. Xây kè, đê bao quanh thành phố
2.1. Một số kè chính được xây ở Hà Nội
- Ngay từ năm 1886, Khu Công chính Bắc Kỳ là cơ quan chuyên môn phụ trách công tác đắp đê sông Hồng và sông Đuống đã có những dự án xây kè bờ sông Hồng ở Hà Nội[xxxv]. Tiếp đó, một Hội đồng kỹ thuật giám sát các biện pháp bảo vệ và khôi phục kè tại Hà Nội được thành lập theo nghị định ngày 02-3-1887 của Tổng Trú sứ Trung-Bắc Kỳ và ngay trong năm 1887, các tài liệu liên quan đến vấn đề này như điều kiện thầu, dự toán kinh phí, quy ước đóng cọc bảo vệ kè tại Hà Nội, hợp đồng cung cấp đá xây kè ở Hà Nội... đã được hoàn tất[xxxvi].
- Trong 3 năm liền (1888 - 1891), phương án xây kè Cự Phú[xxxvii] đã được Tổng Trú sứ Trung-Bắc Kỳ, Hội đồng thuộc địa, Trưởng Khu Công chính Bắc Kỳ bàn bạc và thông qua. Trong quá trình thực hiện, thành phố đã ra quyết định cấp tiền bồi thường cho những người có đất bị thu hồi để xây kè Cự Phú. Đây là kè đầu tiên được xây tại Hà Nội. Một số kè khác cũng được xây dựng trong thời gian sau như kè Thương Mại (quai Commercial)[xxxviii], kè Rheinart, kè Clémenceau và kè Guillemoto; kè 300m dưới lòng sông Hồng phía thượng lưu cầu Hà Nội được xây năm 1901[xxxix]; kè đá phố France[xl] được xây năm 1902[xli]...
2.2. Các đê được xây và mở rộng ở Hà Nội
- Công việc đầu tiên mà chính quyền thuộc địa ở Hà Nội tiến hành vào năm 1899 là bồi đắp thêm cho các đoạn thấp của đê Đại La[xlii] rồi sau đó mới là xây dựng các con đê.
- Theo thống kê sơ bộ, Hà Nội có 3 con đê lớn được xây dựng trong thời cận đại là đê Parreau[xliii]; đê Clémenceau[xliv] đoạn nằm giữa phố France và ranh giới phía nam của thành phố (sau được đổi tên thành đê Rheinart)[xlv]; đê Fellonneau[xlvi] (hay còn gọi là đường Cầu Đất, đoạn nằm giữa đê Fellonneau và phố France) sau được đổi tên thành đê Guillemoto[xlvii] (nay là đường Trần Quang Khải)[xlviii].
- Đê bờ phải sông Hồng, đoạn chạy qua Hà Nội được mở rộng vào năm 1905[xlix].
- Đê phụ trên bờ phải sông Hồng phía thượng lưu Blockhaus Nord[l] được xây dựng tại Hà Nội vào năm 1906[li].
- Đê ngăn cách giữa đê bờ phải sông Hồng và đê Parreau được xây vào năm 1929 để bảo vệ thành phố Hà Nội khỏi nạn lụt[lii].
Trong quá trình xây đê, những người bản xứ có nhà phải di chuyển và cây trồng bị phá đều được nhận tiền đền bù.
2.3. Kiểm tra và bảo trì đê thường xuyên, nhất là trong mùa mưa lũ
- Ngay từ năm 1892, Toàn quyền Đông Dương đã ủy quyền cho Thống sứ Bắc Kỳ Chavassieux ký một nghị định cho phép mở một khoản tín dụng 10.000 đồng Đông Dương để thi công các công trình bảo vệ đê sông Hồng phía thượng lưu Hà Nội. Nhờ vậy, đoạn đê sông Hồng phía Nhật Tân bị vỡ năm 1892 đã được gia cố kịp thời[liii].
- Theo báo cáo của Giám đốc Khu Công chính Bắc Kỳ về tình hình kiểm tra đê sông Hồng phía đồng bằng năm 1892, đoạn đê sông Hồng chạy qua Hà Nội rất nhỏ hẹp cần phải tiến hành gia cố và nâng cao thêm. Trong đợt này, khối lượng mà thành phố Hà Nội phải gia cố đê là 11.600 mét khối trong đó khối lượng phải tiến hành ngay là 600 mét khối[liv].
- Từ 1893 đến 1897, nhiều lần tu sửa đê đã được thực hiện tại huyện Thọ Xương và huyện Thanh Trì vào năm 1894[lv]; gia cố các vết nứt trên đê Nhật Tân năm 1895[lvi]; đắp cao thêm 30 trượng cho đoạn đê sông Hồng qua địa bàn Yên Phụ năm 1899[lvii] vì đoạn đê này rất thấp, thường xuyên bị nước tràn bờ mỗi năm; sửa chữa và gia cố đê bờ phải sông Hồng đoạn từ làng Phúc Xá đến Bệnh viện De Lanessan[lviii] năm 1909[lix]; nâng cao và gia cố đê sông Hồng đoạn từ Phúc Xá đến Thanh Trì năm 1910[lx]; gia cố đê ngoại thành Hà Nội tại làng Lương Yên, tổng Thanh Nhàn năm 1911[lxi]; nâng cao và gia cố phần bờ phải của đê sông Hồng đoạn từ Phúc Xá đến Thanh Trì năm 1912[lxii]; gia cố đê Tứ Châu, đắp mới đoạn đê sông Hồng - Hà Nội và đắp một con đê nhỏ trên đường Nhật Tân năm 1913[lxiii]; bồi đắp và gia cố đê bờ phải sông Hồng đoạn từ Phú Xá đến Thanh Trì tại các làng Nhật Tân, Quảng Bá, Nội Châu, Nghi Tàm, Yên Phụ, Lãng Yên, Lạc Trung, Lương Yên... và các đoạn đê từ Nhật Tân đến Vĩnh Tuy tại các tổng Thượng, Phúc Lâm, Thanh Nhàn và Hoàng Mai năm 1914[lxiv]; mở rộng và gia cố đê bờ phải sông Hồng (phía hạ lưu Hà Nội) năm 1915[lxv]; sửa chữa đê bờ phải sông Hồng phía hạ lưu Hà Nội năm 1918[lxvi]...
- Từ năm 1924-1929, Bắc Kỳ có hẳn một chương trình gia cố đê do Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương soạn thảo[lxvii] được bắt đầu bằng việc bồi đắp và gia cố các đoạn đê từ Yên Phụ đến Nghi Tàm, từ Nghi Tàm đến Quảng Bá và từ Yên Lãng đến Vĩnh Tuy vào tháng 5-1924[lxviii]. Năm 1925 việc gia cố được thực hiện đối với đê của huyện Thanh Trì tại các tổng Vĩnh Ninh, Nam Phù, Thịnh Liệt, Cổ Diễn và Ninh Xá[lxix] và đoạn từ Đông Tác đến bờ đê sông Hồng (Lãng Yên)[lxx]. Riêng đê bờ phải sông Hồng được gia cố nhiều lần, 2 lần do cơn bão năm 1921 và 1923 gây ra[lxxi]; 2 lần trong năm 1925 cho đoạn từ Đông Ngạc đến Yên Phụ và đoạn từ đường Abattoir[lxxii] đến Nam Giư; 1 lần gia cố cho đoạn từ Đông Ngạc đến Nhật Tân vào năm 1926 và 1 lần cho đoạn từ Abattoir đến Thanh Trì năm 1927[lxxiii]. Đê bờ trái sông Hồng cũng được gia cố nhiều lần trong các năm từ 1926 đến 1931, thậm chí có lần còn được gia cố trên một đoạn dài tới 5491m[lxxiv]...
2.4. Các biện pháp hộ đê, chống lụt cho Hà Nội
- Việc đầu tiên được chính quyền bảo hộ thực hiện ở Hà Nội nhằm bảo vệ khu vực từ sông Hồng đến đê bao thành phố Hà Nội là ra quyết định cấm xây lò gạch hoặc các công trình tương tự trong khu vực này vì việc lấy đất làm gạch có thể gây vỡ đê trong mùa mưa lũ. Quyết định ngày 12-5-1895 của Thống sứ Bắc Kỳ cũng quy định các lò gạch hoặc công trình tương tự đã tồn tại sẽ phải phá bỏ trước ngày 01-7-1895[lxxv].
- Từ năm 1900 đến 1920, chính quyền Hà Nội đã có các biện pháp phòng chống lũ lụt của sông Hồng đe dọa thành phố như báo cáo của kỹ sư Khu Thuỷ lợi về các biện pháp bảo vệ đê sông Hồng - Hà Nội (tháng 10-1900)[lxxvi]; mở tín dụng cho việc thi công công trình phòng chống lũ bảo vệ thành phố Hà Nội năm 1903 và tiến hành thầu cung cấp đá kè đê sông Hồng-Hà Nội từ 1907-1920[lxxvii]; kiểm tra, xử lý kịp thời các đoạn đê từ Yên Phụ đến Nghi Tàm, từ Nghi Tàm đến Nội Châu... có nguy cơ bị vỡ (theo báo cáo ngày 22-3-1906 của Tri huyện Hoàn Long gửi Trưởng khu ngoại ô Hà Nội)[lxxviii]; kiểm tra tình trạng xuống cấp và sửa chữa, gia cố kịp thời 4 đoạn đê nằm trên địa phận các làng Lương Yên, Lãng Yên thuộc tổng Thanh Nhàn (theo báo cáo ngày 18-5-1911 của Trưởng Khu ngoại ô Hà Nội gửi Thống sứ Bắc Kỳ)[lxxix].
- Công việc bảo vệ đê điều trong mùa lụt từ 1917-1945 cũng được chính quyền bảo hộ ở Bắc Kỳ và thành phố Hà Nội thực hiện theo nghị định ngày 01-7-1917 của quyền Thống sứ Bắc Kỳ, quy định việc canh gác, bảo vệ, gia cố và sửa chữa đê trong cả mùa khô và mùa mưa lũ, cùng các biện pháp an ninh đối với người và tài sản khi lũ lụt xảy ra; theo thông tư ngày 12-5-1919 của Thống sứ Bắc Kỳ (quy định có 5 hiện tượng thường gặp trên các đê và biện pháp khắc phục: sệ sườn đê về phía ruộng lúa, thấm nước qua thân đê hoặc dưới nền đất, sụt toàn bộ đê, phá mòn bờ đê, sụt lở hoặc bị huỷ hoại phía sông)...; theo thông tư ngày 25-6-1921 của Thống sứ Bắc Kỳ về các biện pháp an ninh đối với người và tài sản trong trường hợp đê vỡ và theo nghị định ngày 08-3-1945 của Thống sứ Bắc Kỳ chỉ định các thành viên của Hội đồng bảo vệ đê và các công trình chống lũ...[1].
- Huy động sự trợ giúp của quân đội vào việc bảo vệ chống lụt ở Bắc Kỳ và ở Hà Nội trong các năm từ 1907-1913 và 1930[2].
Ảnh tư liệu hiếm về trận lụt lịch sử ở miền Bắc năm 1926, nguồn: Bulletin des Amis du vieux de Hué
Trận lụt năm 1926. Đê bờ trái sông Hồng đoạn qua Ái Mộ (Gia Lâm ngày nay), nguồn: sưu tầm
Di chuyển bằng thuyền trong thành phố bị ngập lụt năm 1926, nguồn: Bulletin des Amis du vieux de Hué
Không ảnh trận lụt lịch sử của Hà Nội ngày 29/7/1926, nguồn: Bulletin des Amis du vieux de Hué
Nước ngập mênh mông dâng cao sát mặt sàn cầu Long Biên trong trận lụt lịch sử năm 1926, nguồn: France Indochine.
Gia cố đê Clémenceau năm 1926, nguồn: Phủ Toàn quyền Đông Dương
- Tiếp tế gạo và muối cho những người bị thiệt hại do lũ lụt trong các năm 1913-1926; trợ cấp cho công chức, nhân viên người Âu và người bản xứ đã tham gia chống lũ ngày từ 28 đến 30-7-1926 (có danh sách tên, số giờ tham gia, số tiền trợ cấp kèm theo)[3]; thành lập Hội đồng bảo vệ đê điều và các công trình chống lũ, chỉ định các thành viên theo nghị định ngày 08-3-1945 của Thống sứ Bắc Kỳ[4].
Ngoài ra, chính quyền thuộc địa cũng đã nghiên cứu và xây dựng được một hệ thống thoát nước cho thành phố Hà Nội[5]. Tuy nhiên, dù có thiết bị trắc đạc tiên tiến nhưng trong suốt 60 năm kể từ ngày kỹ sư Pavillier thiết kế hệ thống phòng lũ để bảo vệ khu Nhượng địa (1875-1945), người Pháp vẫn không giải được bài toán trị thủy sông Hồng. Trong khoảng thời gian đó, thành phố Hà Nội đã phải hứng chịu nhiều trận lụt do sông Hồng gây ra, đặc biệt là trận lụt lịch sử năm 1926 mà nhiều ảnh chụp về hậu quả của nó vẫn được lưu giữ đến ngày nay.
Hậu quả đó một phần cũng do khí hậu nhiệt đới gây nên.
[1] MHN, hs: 4384.
[2] MHN, hs: 4382.
[3] MHN, hs: 4383.
[4] MHN, hs: 4384.
[5] Xem thêm: Đào Thị Diến, Hệ thống thoát nước ở Hà Nội thời cận đại, https://archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/he-thong-thoat-nuoc-o-thanh-pho-ha-noi-thoi-can-dai, 01/11/2024
[i] Theo Phan Huy Lê (Chủ biên), Lịch sử Thăng Long - Hà Nội, tập 1, Nxb. Hà Nội, 2010.
[ii] Sách tham khảo phần I dẫn theo: Phạm Xuân Hằng - Phan Phương Thảo (Đồng chủ biên), Biên niên lịch sử Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 2010 (Đào Thị Diến tham gia biên soạn).
[iii] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tập 1, tr. 373. Sách tham khảo phần I dẫn theo: Phạm Xuân Hằng - Phan Phương Thảo (Đồng chủ biên), Biên niên lịch sử Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 2010 (Đào Thị Diến tham gia biên soạn).
[iv] Việt sử lược, Nxb. Văn Sử Địa, H, 1960, tr. 149.
[v] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tập 2, tr. 15.
[vi] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tập 2, tr. 17.
[vii] Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, tập 1, tr. 465.
[viii] Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr. 350.
[ix] Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb. Khoa học xã hội, H, 2000, tr. 170.
[x] Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, tập 1, tr. 625.
[xi] Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, tập 1, tr. 1130.
[xii] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tập 3, tr. 26.
[xiii] Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, Sđd, tr. 392.
[xiv] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tập 3, tr. 229.
[xv] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tập 3, tr. 231.
[xvi] Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789), Sđd, tr. 28.
[xvii] Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, Sđd, tr. 515.
[xviii] Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, Sđd, tr. 582.
[xix] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, H, 2002, tr. 743.
[xx] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Sđd, tr. 827.
[xxi] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 112-113.
[xxii] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 4, Sđd, tr. 403-414.
[xxiii] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 6, Sđd, tr. 1070.
[xxiv] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Sđd, tr. 508; 517.
[xxv] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Sđd, tr. 249.
[xxvi] Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1918, Nxb. Giáo dục, H, 2002, tr. 83.
[xxvii] Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1918, Sđd, tr. 83.
[xxviii] Khu Nhượng địa là nơi để “xây dựng một ngôi nhà cho viên Công sứ và đội hộ vệ ở ngoài tòa thành bên bờ sông” theo Công ước về việc Pháp thỏa thuận rút khỏi Hà Nội ngày 06-02-1874. Tại điều khoản phụ kèm theo Công ước này, diện tích của khu Nhượng địa được ấn định là 5 mẫu (2,5ha) nhưng trên thực tế diện tích khu này đã tăng lên gấp hơn 7 lần (18ha), gồm các phường Thủy Cơ (Vạn Chài), Trúc Võng, Bến Dương và Tự Nhiên của huyện Thọ Xương. Theo Phan Huy Lê (Chủ biên), Lịch sử Thăng Long Hà Nội, tập 2, Nxb Hà Nội, 2012 thì “Đó là một khoảng đất rộng hình chữ nhật nằm dọc, có các cạnh dài hai bên là con đê trong (các đại lộ Lê Thánh Tông và Trần Thánh Tông ngày nay) và bờ sông Hồng; các cạnh ngắn trên dưới là các con đường được đắp cao (ngày nay là đoạn đầu phố Tràng Tiền cho đến phố Nguyễn Công Trứ) chưa kể đến một nghĩa địa Tây rộng hơn 1ha nằm sát về phía nam” (nay là khoảng đất ở phía đông - nam nội thành Hà Nội, khu vực từ Bảo tàng Lịch sử quốc gia đến Bệnh viện Trung ương quân đội 108).
[xxix] André Masson, Hanoï pendant la période héroïque (1873-1888), Paris, 1929, p. 101.
[xxx]André Masson, Hanoï pendant la période héroïque (1873-1888), Sđd, p. 107.
[xxxi] Claude Bourrin, Bắc Kỳ xưa (1884-1889), Nguyễn Tiến Quỳnh dịch, Nxb. Giao thông Vận tải, H, 2007.
[xxxii] André Masson, Hanoï pendant la période héroïque (1873-1888), Sđd, p. 108.
[xxxiii] Sông Hồng (fleuve Rouge) là cách gọi sông Nhị của người Pháp do nước sông mang màu đỏ của phù sa.
[xxxiv] Fonds de la Résidence supérieure du Tonkin (RST), hs: 11637.
[xxxv] RST, hs: 6807.
[xxxvi] RST, hs: 6814.
[xxxvii] Thuộc khu vực bãi Cầu Đất ngày nay.
[xxxviii] Kè Thương Mại (quai Commercial) sau được xây dựng thêm thành con đê Commerce, năm 1933 đổi tên thành đê Clémenceau, gồm 2 đoạn: kè Rheinart và kè Guillemoto. Sau 1933 gộp cả 2 đoạn trên thành phố Trần Nhật Duật, nay là đường Trần Nhật Duật.
[xxxix] Fonds de la Circonscription territoriale des Travaux Publics du Tonkin (TPT), hs 2185.
[xl] Nay là phố Tràng Tiền.
[xli] Bulletin administratif du Tonkin (BAT), 1902, No 21, p. 629. Phố France nay là phố Nguyễn Cảnh Chân.
[xlii] Fonds de la Résidence de Hadong (RHD), hs: 3048.
[xliii] Đê Parreau nay là đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội. Ensèbe Irènée Parreau (1842-1922) là tên một sĩ quan cấp tá Pháp, Thống sứ Bắc Kỳ từ 29-4-1888 đến 10-5-1889.
[xliv] Georges Benjamin Clémenceau (1841-1929), chính trị gia người Pháp rất giỏi hùng biện, vốn là thày thuốc và nhà báo, từng là Thủ tướng Pháp trong những năm 1906-1909 và 1917-1920 và cũng từng là thành viên của Viện Hàn lâm Pháp.
[xlv] Nay là đường Trần Khánh Dư và Nguyễn Khoái. Pière Paul Rheinart (1840-1902) lần đầu đến Nam Kỳ vào năm 1865, Lãnh sự Pháp tại Huế năm 1874, phụ trách giao thiệp giữa triều đình Huế và Pháp (từ 28-7-1875 đến 14-12-1876), quyền Tổng Trú sứ Trung-Bắc Kỳ (từ 06-6-1884 đến 10-10-1884); Tổng Trú sứ Trung-Bắc Kỳ (từ 14-11-1888 đến 03-5-1889), là người chủ mưu vụ đem quân ra đánh Bắc Kỳ.
[xlvi] Kỹ sư cầu đường phụ trách một số công việc quan trọng ở Sở Công chính Bắc Kỳ.
[xlvii] Charles Marie Guillemoto (1837-1907): kỹ sư, Giám đốc Sở Công chính Đông Dương năm 1897, phụ trách xây dựng đường hỏa xa năm 1895-1901.
[xlviii] Bulletin municipale de Hanoï (BMHN), 1933, No12, p. 1149-1156.
[xlix] TPT, hs: 1752.
[l] Lô cốt phía bắc nay thuộc phố Phó Đức Chính (Hà Nội).
[li] TPT, hs: 1734.
[lii] Fonds de l’Inspection générale des Travaux Publics (IGTP), hs: 1112.
[liii] RHD, hs: 3008.
[liv] RHD, hs: 3010.
[lv] RHD, hs: 3015.
[lvi] RST, hs: 79043.
[lvii] RHD, hs: 3022.
[lviii] Nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
[lix] TPT, hs:1926.
[lx] BAT, 1910, No 9, p. 566-567.
[lxi] TPT, hs: 1734.
[lxii] BAT, 1912, No 8, p. 568-569.
[lxiii] RHD, hs: 3029.
[lxiv] RHD, hs: 3030.
[lxv] TPT, hs: 1734.
[lxvi] TPT, hs: 1734.
[lxvii] IGTP, hs: 1059.
[lxviii] IGTP, hs: 1075.
[lxix] RHD, hs: 3043.
[lxx] IGTP, hs: 1076.
[lxxi] TPT, hs: 1859; IGTP, hs: 1130 và 1131.
[lxxii] Nơi có lò mổ lợn của thành phố, nay là phố Lương Yên.
[lxxiii] IGTP, hs: 1082; 1083; 1097; 1111;
[lxxiv] IGTP, hs: 1077.
[lxxv] RST, hs: 29104.
[lxxvi] TPT, hs: 2184.
[lxxvii] TPT, hs: 4035.
[lxxviii] RHD, hs: 3058.
[lxxix] RHD, hs: 3061.
TS. Đào Thị Diến