10:25 PM 17/10/2024  | 

Trường thi Thừa Thiên là nơi tuyển chọn hiền tài hàng đầu của triều Nguyễn. Trong lịch sử khoa cử Nho học dưới triều Nguyễn, khoa thi đầu tiên tại trường được tổ chức vào năm 1813, tính đến khoa thi Hương cuối cùng năm 1918, trường tổ chức được 42 (1) khoa thi. Để thực hiện được 42 khoa thi trong hơn 1 thế kỷ (1813 – 1918), trường thi Thừa Thiên đã ra đời và phát triển như thế nào?

Sự ra đời của trường thi Thừa Thiên:

Theo Đại Nam thực lục ghi chép: Tháng 5 năm Nhâm Thân, Gia Long thứ 11 (1812), chiếu lấy sang năm là năm Quý Dậu (1813) mở khoa thi Hương: Quảng Đức, Bình Định, Gia Định, Nghệ An, Thanh Hoa, Thăng Long, Sơn Nam Thượng, đều đặt trường thi. (Trường Quảng Đức lấy học trò tại các doanh Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam hợp thi)(2)…Như vậy, trường thi Hương văn tại Kinh đô Huế được ra đời vào năm 1813 (khoa thi Hương thứ 2 dưới triều vua Gia Long), với tên gọi ban đầu là trường Quảng Đức. Trường được dựng ở địa phận xã Đốc Sơ về phía bắc Kinh thành.(3)

Mậu Dần, Gia Long năm thứ 17 (1818), dời trường thi Quảng Đức đến Quảng Nam(4). Năm 1819, đổi tên thành trường Trực Lệ. Căn cứ theo Quốc triều Hương khoa lục ghi: Khoa thi năm Kỷ Mão, Gia Long thứ 18 (1819) trường Trực Lệ thi vào tháng 6, vốn đặt là trường Quảng Đức, khoa này đổi tên.(5)

Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), sau khi đổi dinh Quảng Đức làm phủ Thừa Thiên, vua Minh Mệnh cũng cho đổi trường Trực Lệ thành trường Thừa Thiên. Sách Quốc triều Hương khoa lục có ghi chép lại như sau: Nguyên là trường Quảng Đức, đến năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) bắt đầu đổi tên là trường Thừa Thiên.(6) Tháng 6, năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), đổi đúc ấn “Thừa Thiên thí trường” thay cho ấn “Trực lệ thí trường”.(7) Trường mang tên trường Thừa Thiên (hay còn gọi là trường thi Thừa Thiên) bắt đầu từ khoa thi năm Ất Dậu, Minh Mệnh thứ 6 (1825) cho đến khoa thi cuối cùng vào năm Mậu Ngọ, Khải Định thứ 3 (1918).

Quá trình xây dựng trường thi Thừa Thiên

Về địa điểm dựng trường thi, đầu đời Gia Long, trường thi dựng ở địa phận xã Đốc Sơ về phía bắc Kinh thành. Đến đầu niên hiệu Minh Mệnh dời đến địa phận xã Nguyệt Biều, đều dựng bằng tre lá, xong việc lại dỡ đi.(8)

Đến mùa hạ năm Tân Sửu, Thiệu Trị thứ nhất (1841), Kinh doãn là Phạm Khôi tâu xin dời trường thi đến dựng ở phường Đại Đồng trong Hoàng thành. Vua dụ hai bộ Lễ và Công rằng: “Trường thi cũ ở Nguyệt Biều, địa thế ẩm thấp, đến mùa thu, mưa ngập, học trò vào trường làm văn, rất là không tiện. Bộ thần nên đi hội khám ngay, chọn chỗ đất cao ráo để làm, chớ để ở nơi thấp ướt, làm khổ cho bọn học trò”.(9)

Mùa đông năm Quý Mão (1843), vua Thiệu Trị lệnh cho sửa dựng trường thi Thừa Thiên ở trong Kinh thành (ở phường Ninh Bắc). Trường thi Hương Thừa Thiên trước đặt ở xã Nguyệt Biều (ở bờ bên nam sông Hương), trường thi Hội thì ở trước cửa Ngọ Môn, đều đến kỳ thi, mới dùng tạm nhà tranh, phên nứa; thi xong thì dỡ đi. Đến nay, sai hai bộ Lễ, Công trù tính quy thức, đổi dựng ở trong thành, định làm trường thi Hương, thi Hội. Thưởng tất cả dân phu 600 quan tiền (nhà của chánh phó chủ khảo, chánh phó đề điệu, phân khảo, nhà thập đạo gồm 7 toà, đều 1 gian 2 chái; nhà của giám khảo, phúc khảo, thể sát, mật sát và ngoại trường lại phòng gồm 7 toà, đều 3 gian 2 chái; nhà thí viện, công sở của đề điệu và nội trường lại phòng gồm 3 toà, đều 5 gian 2 chái, nhà sơ khảo 2 toà đều 6 gian 2 chái. Mỗi toà mặt vách sau 2 chái bên tả bên hữu, liệu chừng mở ra 1 chỗ cửa bán nguyệt, đằng sau cửa dựng thêm 1 cái bán mái để làm nơi phòng bếp. Các sở cửa trường đều dựng 2 cái cột, chu vi trường và chu vi sở đề điệu nội trường, ngoại trường và nhà thập đạo giáp 4 vi tả hữu, giáp ất; sở giám khảo chỗ tả hữu giáp 2 viện sơ phúc, đều xây tường gạch để ngăn chặn 4 vi, lại dựng một dãy nhà dài, mỗi dãy đều 7 cái nhà, mỗi cái nhà 17 gian. Thi Hương, mỗi gian ngăn ra làm 4; thi Hội thì 2 - 3 gian ngăn làm một, đều lợp ngói).(10)

Như vậy, trường thi Thừa Thiên từ khi thành lập cho đến năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), đây là lần đầu tiên trường được xây dựng kiên cố, quy mô và vững chắc. Tuy nhiên, sau lần xây dựng kiên cố ấy trường vẫn còn trải qua nhiều lần trung tu và di dời khác. Cụ thể:

Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), do mưa lụt làm hư hỏng nên phải tu bổ lại trường.(11) Năm Tự Đức thứ 10 (1857), đình bỏ nhà hiệu xá ở trường Thừa Thiên do nhà hiệu xá có 28 gian liền bị đổ nát.(12) Năm Kiến Phúc thứ nhất (1884), dời dựng trường Thừa Thiên đến địa phận hai xã La Chử, An Lưu, huyện Hương Trà (do địa điểm dựng trường trước kia ở địa thế chật hẹp nên nay cho dời đến đây).(13) Năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), trường được sửa sang lại do năm trước Kinh thành có việc, quân Pháp chiếm đóng làm gỗ ván ở trường phần nhiều bị hủy hoại và mất mát.(14)

Năm Quý Tỵ, Thành Thái thứ 5 (1893), do ở địa điểm cũ xa cách bất tiện nên dời xây trường thi Thừa Thiên về phường Tây Nghị trong kinh thành. Với dự trù tiền vật liệu cần thiết hơn 1189 quan, tiền thuê nhân công hơn 37484 quan, do nha môn phủ Thừa Thiên nhận lĩnh để làm.(15)

Bản tấu của Bộ Công ngày 21 tháng 2 năm Thành Thái thứ 18 (1906) về việc xin trích tiền công tác năm tại Kinh tu bổ trường thi Thừa Thiên.

Nguồn: TTLTQGI, Châu bản triều Nguyễn

 

Tuy trường Thừa Thiên mới được xây dựng lại ở phường Tây Nghị nhưng do đặc điểm khí hậu miền trung thường xuyên bị mưa bão làm cho trường không tránh khỏi bị hư hỏng và cần tu bổ. Vì thế, năm Thành Thái thứ 12 (1900), trường được đầu tư kinh phí là 876 đồng để tu sửa lại trường.(16) Lại theo bản tấu của Bộ Công ngày 21 tháng 2 năm Thành Thái thứ 18 (1906) tâu: các tòa sở trường thi văn phủ Thừa Thiên năm ngoái bị mưa bão làm sụp đổ, quý Khâm sứ bàn cần tu bổ lại như cũ. Bên cạnh đó có đường thủy quan bị tắc, cần làm thế nào để tiêu thoát nước, cùng việc các quan viên trong trường và học sinh cần nước sinh hoạt nên tùy chọn đất để đào giếng. Quan Khâm sứ đại thần sẽ mua giúp dụng cụ lọc nước. Bộ cùng với phủ Thừa Thiên đã khám xét dự trù kinh phí chi các khoản hết tổng cộng 6849 đồng 9 hào. Do công trình tu bổ trường đó lớn, mà gần đây những người đấu giá đa phần không dự trù số nhân công vật liệu, chỉ đấu giá thấp để tranh cho được việc đến lúc làm thì lấy lý do lỗ vốn cho nên trở thành nhiêu khê. Huống hồ 1 người mà làm nhiều đến 20 nơi, ắt dẫn đến không thể chu tất, không thể tránh sự chậm trễ sai sót gây trở ngại. Vì vậy việc tu bổ trường đó xin do phủ đó chiếu theo quy cách cũ chia khoản để thuê làm. Số tiền dự trù đó xin do bộ thần trích lãnh từ khoản tiền công tác tại Kinh năm nay để cấp giao cho phủ đó nhận làm.(17)

Bên cạnh việc thường xuyên được các vua nhà Nguyễn quan tâm đầu tư xây dựng và tu bổ thì trường Thừa Thiên cứ mỗi đợt trước kì tổ chức các khoa thi đều chi cấp tiền thuê mướn dân phu dọn dẹp trường sở. Căn cứ theo tài liệu Châu bản triều Nguyễn còn ghi chép lại: ngày 16 tháng 1 năm Thành Thái thứ 9 (1897) Bộ Công có tâu:  nhận được tờ tư của quan phủ Thừa Thiên trình bày: tháng 4 năm nay vừa tới kỳ thi hương văn. Theo lệ trước đây có thuê 100 dân phu phát chặt cây cối, dọn dẹp cỏ rác và 30 dân phu mang vác củi, nước đều làm việc trong 1 tháng. Chi cấp gạo tiền cho mỗi người mang vác là 3 mạch tiền một ngày. Xin theo nguyên lệ cũ thuê dân phu làm việc, cấp cho tiền gạo.(18)

Qua nguồn sử liệu và tài liệu Châu bản triều Nguyễn còn sót lại đã phần nào tái hiện lại được hình ảnh trường thi Thừa Thiên dưới triều Nguyễn.

Chú thích tài liệu tham khảo:

1. Tác giả tổng hợp từ Cao Xuân Dục - “Quốc triều Hương khoa lục” (Nxb Lao Động 2011).

2.Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 1, tr765.

3. Đại Nam nhất thống chí, quyển 1 tập Kinh sư.

4. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 1, tr883.

5. Cao Xuân Dục - “Quốc triều Hương khoa lục” (Nxb Lao Động 2011), tr101.

6. Cao Xuân Dục - “Quốc triều Hương khoa lục” (Nxb Lao Động 2011), tr129.

7. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 2, tr 345.

8. Đại Nam nhất thống chí, quyển 1 tập Kinh sư.

9. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 6, tr 202.

10. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 6, tr 609.

11.Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 6, tr 1062.

12. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 7, tr 633.

13.Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 9, tr 126.

14.Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 9, tr 356.

15.Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 6, tr 609.

16. Đại Nam thực lục – Đệ lục kỷ - quyển V.

17. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Thành Thái.

18. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Thành Thái.

 

 

 

 

 

Lê Thông