09:58 PM 16/04/2025  | 

Tổ chức các đơn vị hành chính và phân cấp quyền hạn quản lý là bộ phận cấu thành không thể thiếu của bộ máy nhà nước. Việc xác định địa giới hành chính và phân chia quyền lực giữa các cấp chính quyền là vấn đề vô cùng quan trọng của mỗi quốc gia. Nó góp phần ổn định xã hội và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Vì vậy việc nghiên cứu không gian địa lý nói chung và địa giới hành chính nói riêng theo thời gian là việc vô cùng cần thiết, không chỉ phục vụ nghiên cứu lịch sử mà còn cung cấp những tư liệu quan trọng cho hoạt động quản lý, đặc biệt là việc tổ chức sắp xếp địa giới hành chính tại Việt Nam.

1. Địa giới hành chính Việt Nam trước triều Nguyễn

Nước ta theo như sử cũ chép đời Hùng vương, chia làm 15 bộ gồm: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức và Văn Lang. Cương giới được xác định phía đông đến biển, phía tây giáp Vân Nam, phía nam giáp nước Chiêm Thành, phía bắc giáp Quảng Tây, phía đông bắc giáp Quảng Đông, phía tây nam giáp Ai Lao[1].

          Đời nhà Hán, nước ta thuộc các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Nhà Hậu Hán đặt Giao Châu để thống trị các quận. Đời Tấn, Giao Châu gồm 7 quận, 50 huyện; trong đó: Giao Chỉ có 14 huyện, Cửu Chân có 7 huyện, Nhật Nam có 5 huyện, Cửu Đức có 8 huyện, Tân Xương có 6 huyện, Vũ Bình có 7 huyện, Hợp Phố có 6 huyện. Đời Tùy, chia Giao Châu thành 5 quận, 32 huyện; trong đó: Giao Chỉ có 9 huyện, Cửu Chân có 7 huyện, Nhật Nam có 8 huyện, Lâm Ấp có 4 huyện, Tị Ảnh có 4 huyện. Đời Đường, đặt phủ An Nam đô hộ thống lãnh 12 châu, 50 huyện. Trong đó: châu Giao có 8 huyện, châu Lục có 3 huyện, châu Phong có 5 huyện, châu Phúc Lộc có 3 huyện, châu Thang có 3 huyện, châu Chi có 7 huyện, châu Diễn có 6 huyện, châu Vũ Nga có 7 huyện, châu Vũ An có 2 huyện, châu Ái có 6 huyện, châu Hoan có 4 huyện, châu Trường có 4 huyện[2].

          Sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân, chia đất nước làm 10 đạo. Năm Ứng Thiên thứ 9 (1002) Lê Đại Hành đổi 10 đạo làm các lộ, phủ, châu. Đời Lý Thái Tổ (974 - 1028) chia đất nước làm 10 đạo, 24 lộ.

          Đời Lý Thánh Tông, năm Thần Vũ thứ nhất (1069) vua đem quân đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ, Chế Củ đem 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính dâng cho nước ta để cầu hòa. Năm Thái Ninh thứ 4 (1075) đời vua Nhân Tông, đổi châu Địa Lí làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh, chiêu tập dân đến ở, từ Đèo Ngang trở vào đến Quảng Trị từ đó thuộc bản đồ nước ta.

          Đời Trần Thái Tông, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 11 (1242) chia cả nước thành 12 lộ. Năm Hưng Long 14 (1306) nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân, Chế Mân dâng đất hai châu Ô, Lí làm sính lễ. Năm thứ 15 đổi hai châu Ô, Lí làm hai châu Thuận, Hóa. Cuối đời Trần, nước ta chia làm 24 lộ, phủ, trấn gồm: lộ Đông Đô, lộ Bắc Giang, lộ Lạng Giang, lộ Tam Giang, phủ Thiên Trường, phủ Long Hưng, lộ Khoái Châu, phủ Kiến Xương, lộ Hoàng Giang, lộ Trường Yên, trấn Thiên Quan, phủ Tân Hưng, lộ Hải Đông, trấn Quảng Oai, trấn Thiên Hưng, trấn Thái Nguyên, trấn Lạng Sơn, trấn Tuyên Quang, trấn Thanh Đô, trấn Vọng Giang, phủ Nghệ An, trấn Tây Bình, trấn Thuận Hóa, lộ Thăng Hoa[3].

          Đời nhà Hồ, vẫn giữ cách phân chia hành chính thời Trần gồm 24 lộ, phủ, trấn. Hồ Quí Li đổi phủ Thanh Hóa thuộc trấn Thanh Đô làm phủ Thiên Xương, phủ Diễn Châu thuộc trấn Vọng Giang làm phủ Linh Nguyên, phủ Kiến Xương làm phủ Kiến Ninh. Sau khi diệt nhà Hồ, nhà Minh đặt ách đô hộ lên đất nước ta và đổi đặt cả nước thành quận Giao Chỉ. Trong nước chia đặt các châu, huyện thuộc vào 15 phủ và 5 châu lớn, gồm các phủ: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Kiến Bình, Tân Yên, Kiến Xương, Phụng Hóa, Thanh Hóa, Trấn Man, Lạng Sơn, Tân Bình, Diễn Châu, Nghệ An, Thuận Hóa và các châu Thái Nguyên, Tuyên Hóa, Gia Hưng, Qui Hóa, Quảng Oai[4].

          Đời Lê, vua Lê Thái Tổ chia cả nước thành 5 đạo gồm: Nam đạo, Bắc đạo, Đông đạo, Tây đạo và Hải-Tây đạo. Trong đạo thống hạt các lộ, trấn; lộ, trấn thống hạt phủ; phủ thống hạt châu, huyện; châu, huyện thống hạt xã, thôn. Đời Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt ra 12 đạo thừa tuyên là Bắc Giang, Lạng Sơn, Nam Sách, Quốc Oai, An Bang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thiên Trường, Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa và phủ Trung Đô. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) nhà vua cho định lại bản đồ trong cả nước, bỏ lộ, trấn, đặt phủ huyện đều thống thuộc vào các thừa tuyên. Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), bình định được phía bắc Chiêm Thành, đặt làm Thừa tuyên Quảng Nam.

Nước ta lúc đó có tổng cộng 13 đạo thừa tuyên và Kinh đô. Trong đó, Sơn Nam lãnh 11 phủ gồm 42 huyện; Kinh Bắc lãnh 4 phủ gồm 20 huyện; Sơn Tây lãnh 4 phủ gồm 24 huyện; Hải Dương lãnh 3 phủ gồm 17 huyện; An Bang lãnh 1 phủ gồm 3 huyện, 4 châu; Lạng Sơn lãnh 1 phủ gồm 6 châu; Ninh Sóc (Thái Nguyên đổi tên) lãnh 3 phủ gồm 8 huyện, 6 châu; Tuyên Quang lãnh 1 phủ gồm 2 huyện, 5 châu; Hưng Hóa lãnh 3 phủ gồm 17 châu; Thanh Hóa lãnh 4 phủ gồm 16 huyện, 4 châu; Nghệ An lãnh 4 phủ gồm 27 huyện, 3 châu; Thuận Hóa lãnh 2 phủ gồm 7 huyện, 3 châu; Quảng Nam lãnh 4 phủ gồm 11 huyện; Trung Đô (tức kinh thành Thăng Long) lãnh 1 phủ gồm 2 huyện[5].

Bản đồ Đại Việt, do Joan Blaeu người Hà Lan vẽ, khoảng thế kỷ thứ 17[6]

[Carte de la Mer de Chine méridionale]/Joan Blaeu]

Nguồn: https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/btv1b525082483

 

          Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, do áp lực từ các cuộc tấn công của chúa Trịnh ở phương Bắc và nhu cầu mở rộng đất đai về phương Nam, các chúa Nguyễn bắt đầu công cuộc mở mang bờ cõi về phía Nam.

          Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần lấy được đất Chiêm từ phía Đông sông Phan Lang (Phan Rang) đến tỉnh Phú Yên, lập ra các phủ Thái Khang (sau đổi là Bình Khang), Diên Ninh (sau đổi là Diên Khánh). Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh làm Kinh lược đất Chân Lạp. Ông lấy Đồng Nai đặt làm huyện Phúc Long, Sài Gòn làm huyện Tân Bình, đặt dinh Trấn Biên (Biên Hòa), dinh Phiên Trấn (Gia Định) chiêu mộ thêm lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất. Vì vậy đến cuối thế kỷ 17, sau nhiều năm thực hiện chính sách di dân, khai phá khẩn hoang của các chúa Nguyễn, toàn bộ vùng đất Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa, Biên Hòa, Mỹ Tho trước thuộc Chân Lạp, chính thức thuộc về nước ta.

          Cuối thế kỷ 17, có người tên là Mạc Cửu, ở huyện Hải Khang phủ Lôi Châu tỉnh Quảng Đông. Vào thời Đại Thanh niên hiệu Khang Hi 19 (1680), do không khuất phục chính sách buổi đầu của nhà Đại Thanh, Mạc Cửu để tóc rồi chạy qua phương Nam, trú tại phủ Nam Vang nước Cao Miên. Ông chiêu mộ dân Việt Nam lưu tán ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kè, Cần Bột, Vụng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau lập thành 7 xã thôn gọi là Hà Tiên. Năm 1708, Mạc Cửu dâng biểu trần tình đến Kinh đô Phú Xuân xin đứng đầu xứ ấy. Năm 1714, chúa Nguyễn Phúc Chu sắc ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, tước Cửu Ngọc hầu, phủ trị ở Phương Thành. Năm 1735, Mạc Cửu mất, con trưởng là Mạc Thiên Tứ lên thay. Mạc Thiên Tứ tiếp tục mở rộng đất đai đến Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ cho lệ vào trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong[7].

          Năm Bảo Thái thứ 4 (1723) đời Lê Dụ Tông, triều đình định lại bản đồ trong nước, lúc đó nước ta tổng cộng có 13 đạo, 55 phủ, 226 huyện châu[8].

          Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chu lại chiếm được vùng đất nay là Vĩnh Long, Bến Tre, đặt dinh Long Hồ trực thuộc phủ Gia Định. Đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), Chân Lạp lại dâng đất thuộc các vùng Trà Vinh, Sóc Trăng, Sa Đéc, Châu Đốc cho lệ vào nước ta. Đồng thời với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, các chúa Nguyễn cũng lần lượt kiểm soát hải đảo ngoài khơi như Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quốc…

          Như vậy đến hết thế kỷ 18 dưới thời các chúa Nguyễn, cương giới nước Việt Nam được mở rộng hết về phương Nam với lãnh thổ hình chữ S chạy dài theo bán đảo Đông Dương.

2. Địa giới hành chính Việt Nam thời Nguyễn độc lập (1802-1883)

Đầu triều Nguyễn, dưới thời vua Gia Long, việc phân chia hành chính ở nước ta như sau:

          - Khu vực Bắc bộ: phân thành 11 trấn hợp thành Tổng trấn, gọi là Bắc thành Tổng trấn, gồm 5 nội trấn[9] là Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây và 6 ngoại trấn[10] là Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hoá, Quảng Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang.

          - Khu vực Trung bộ: từ Thanh Hoá đến Bình Thuận phân cấp thành các dinh. Trong đó dinh Quảng Đức đặt làm Kinh đô, lại đặt các dinh Quảng Bình, Quảng Trị làm Hữu dực; Quảng Nam, Quảng Ngãi làm Tả dực. Ngoài 5 dinh trực lệ, các trấn phía Bắc kinh thành gồm Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh gọi là Hữu kỳ; các trấn phía Nam từ Bình Định đến Bình Thuận gọi là Tả kỳ.

          - Khu vực Nam bộ: phân thành 5 trấn cũng hợp thành Tổng trấn, gọi là Gia Định Tổng trấn, gồm Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh, Vĩnh Tường và Hà Tiên.

          Đời vua Minh Mệnh, nhà vua nhận thấy việc phân cấp hành chính theo trấn lại hợp thành Tổng trấn khiến công việc bề bộn, vả lại người đứng đầu quyền hành quá lớn, triều đình khó kiểm soát. Vì vậy vua ban Dụ cho bầy tôi rằng: Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta thu cả nước Việt về một mối, trong đó các trấn đất đai rộng lớn, việc quân dân, kiện tụng, tiền lương, thuế khoá thực là bề bộn. Vậy nên chiểu theo địa hạt mà sắp đặt lại và chia người coi giữ cho có chuyên trách, cũng là để tránh mối tệ về sau[11]. Năm thứ 12 (1831) nhà vua hạ lệnh chia đặt lại các trấn từ Quảng Trị trở ra Bắc và đổi Trấn thành Tỉnh, đồng thời thiết đặt các chức quan coi giữ và định quy tắc làm việc. Năm thứ 13 (1832) lại chia đặt các Tỉnh từ Quảng Nam trở vào Nam. Trong đó:

Bắc kỳ chia làm 13 tỉnh là: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Sơn Tây, Quảng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội, Nam Định và Ninh Bình. Trung kỳ gồm 1 phủ Thừa Thiên đặt làm Kinh đô và 11 tỉnh là: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận. Nam kỳ gồm 6 tỉnh là: Phiên An, Biên Hoà, An Giang, Vĩnh Long, Định Tường và Hà Tiên. Trong tỉnh lại chia thành phủ, trong phủ có huyện, trong huyện có tổng, xã.

Sau khi phân định lại tỉnh, để tiện cho việc quản lý, vua Minh Mệnh cho gộp 2 hoặc 3 tỉnh làm một hạt, đặt chức Tổng đốc đứng đầu, từng tỉnh do Tuần phủ đứng đầu. Trừ Thanh Hóa vẫn đặt một hạt độc lập và phủ Thừa Thiên do một viên Phủ doãn đứng đầu, tất cả gồm 15 hạt và 1 phủ Thừa Thiên làm Kinh đô:

-   Sơn - Hưng - Tuyên (Sơn Tây - Hưng Hoá - Tuyên Quang)

-   Lạng - Bằng (Lạng Sơn - Cao Bằng)

-   Ninh - Thái (Bắc Ninh - Thái Nguyên)

-   Hải - Yên (Hải Dương - Quảng Yên)

-   Định - Yên (Nam Định - Hưng Yên)

-   Hà - Ninh (Hà Nội - Ninh Bình)

- Thanh Hóa

-   An - Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh)

-   Bình - Trị (Quảng Bình - Quảng Trị)

- Thừa Thiên (Kinh đô)

-   Nam - Ngãi (Quảng Nam - Quảng Ngãi)

-   Bình - Phú (Bình Định - Phú Yên)

-   Thuận - Khánh (Bình Thuận - Khánh Hoà)

-   Định - Biên (Gia Định - Biên Hoà)

-   Long - Tường (Vĩnh Long - Định Tường)

-   An - Hà (An Giang - Hà Tiên).

“An Nam đại quốc họa đồ” do Jean-Louis Taberd, một nhà truyền giáo người Pháp, lập dưới thời vua Minh Mệnh khoảng năm 1838

Nguồn: https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/btv1b53093605j

 

Sau cải cách của vua Minh Mệnh đến trước khi có sự can thiệp của thực dân Pháp, phân cấp hành chính tại Việt Nam khá ổn định và ít biến động. Đến cuối triều vua Tự Đức, đặt thêm cấp hành chính “phân phủ” để phân cấp mức độ quản lý và tách sáp nhập một số đơn vị hành chính trong tỉnh, tuy nhiên việc điều chỉnh không đáng kể.

Tổ chức đơn vị hành chính các cấp cho đến cuối giai đoạn nhà Nguyễn độc lập bao gồm: 31 đơn vị cấp tỉnh; 86 đơn vị cấp phủ; 320 đơn vị cấp huyện/châu; 1.883 đơn vị cấp tổng; 18.203 đơn vị cấp xã/thôn[12]. Cụ thể:

1. Tỉnh Cao Bằng gồm: 2 phủ, 6 huyện, 31 tổng, 274 xã/thôn.

2. Tỉnh Lạng Sơn gồm: 2 phủ, 7 huyện/châu, 45 tổng, 321 xã/thôn.

3. Tỉnh Hưng Hóa gồm: 4 phủ, 22 huyện/châu, 46 tổng, 215 xã/thôn.

4. Tỉnh Thái Nguyên gồm: 3 phủ, 11 huyện, 81 tổng, 371 xã/thôn.

5. Tỉnh Tuyên Quang gồm: 2 phủ, 8 huyện, 43 tổng, 250 xã/thôn.

6. Tỉnh Sơn Tây gồm: 5 phủ, 21 huyện, 177 tổng, 1163 xã/thôn.

7. Tỉnh Quảng Yên gồm: 2 phủ, 5 huyện, 14 tổng, 120 xã/thôn.

8. Tỉnh Bắc Ninh gồm: 4 phủ, 20 huyện, 163 tổng, 1135 xã/thôn.

9. Tỉnh Hải Dương gồm: 5 phủ, 19 huyện, 185 tổng, 1417 xã/thôn.

10. Tỉnh Hưng Yên gồm: 2 phủ, 8 huyện, 74 tổng, 578 xã/thôn.

11. Tỉnh Hà Nội gồm: 4 phủ, 15 huyện, 129 tổng, 1010 xã/thôn.

12. Tỉnh Nam Định gồm: 4 phủ, 18 huyện, 148 tổng, 1024 xã/thôn.

13. Tỉnh Ninh Bình gồm: 2 phủ, 7 huyện, 51 tổng, 399 xã/thôn.

14. Tỉnh Thanh Hoá gồm: 6 phủ, 22 huyện, 123 tổng, 1942 xã/thôn.

15. Tỉnh Nghệ An gồm: 6 phủ, 27 huyện, 99 tổng, 866 xã/thôn.

16. Tỉnh Hà Tĩnh gồm: 5 phủ, 14 huyện, 69 tổng, 497 xã/thôn.

17. Tỉnh Quảng Bình gồm: 2 phủ, 6 huyện, 24 tổng, 345 xã/thôn.

18. Tỉnh Quảng Trị gồm: 2 phủ, 13 huyện, 27 tổng, 461 xã/thôn.

19. Phủ Thừa Thiên gồm: 6 huyện, 31 tổng, 431 xã/thôn.

20. Tỉnh Quảng Nam gồm: 2 phủ, 6 huyện, 45 tổng, 1167 xã/thôn.

21. Tỉnh Quảng Ngãi gồm: 1 phủ, 3 huyện, 18 tổng, 446 xã/thôn.

22. Tỉnh Bình Định gồm: 2 phủ, 5 huyện, 21 tổng, 675 xã/thôn.

23. Tỉnh Phú Yên gồm: 1 phủ, 2 huyện, 7 tổng, 204 xã/thôn.

24. Tỉnh Khánh Hoà gồm: 2 phủ, 4 huyện, 17 tổng, 278 xã/thôn.

25. Tỉnh Bình Thuận gồm: 2 phủ, 4 huyện, 30 tổng, 505 xã/thôn.

26. Tỉnh Gia Định gồm: 3 phủ, 9 huyện, 41 tổng, 561 xã/thôn.

27. Tỉnh Biên Hoà gồm: 2 phủ, 7 huyện, 35 tổng, 408 xã/thôn.

28. Tỉnh An Giang gồm: 3 phủ, 10 huyện, 33 tổng, 287 xã/thôn.

29. Tỉnh Vĩnh Long gồm: 3 phủ, 8 huyện, 46 tổng, 413 xã/thôn.

30. Tỉnh Định Tường gồm: 2 phủ, 4 huyện, 19 tổng, 246 xã/thôn.

31. Tỉnh Hà Tiên gồm: 1 phủ, 3 huyện, 11 tổng, 194 xã/thôn.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn.
  2. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Địa bạ triều Nguyễn.
  3. Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục.
  4. Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí.
  5. Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đồng Khánh địa dư chí.
  6. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch của Viện Sử học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005.
  7. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, (Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch; Đào Duy Anh hiệu đính), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
  8. Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.
  9. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010.

 

Nguyễn Thu Hoài

Trung tâm Lưu trữ quốc gia I

 

Đón xem Kỳ 2: Địa giới hành chính Việt Nam thời kỳ thuộc địa Pháp.

 

[1] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch của Viện Sử học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005, tập I, trg 23-25.

[2] Phan Huy Chú, đã dẫn, trang 30-31.

[3] Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010, trang 126-166.

[4] Đào Duy Anh, đã dẫn, trang 167.

[5] Đào Duy Anh, đã dẫn, trang 172-203.

[6] Bản đồ tác giả đã xử lý cắt chỉnh từ nguyên bản.

[7] Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, (Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch; Đào Duy Anh hiệu đính), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998, trang 119-120.

[8] Phan Huy Chú, đã dẫn, trang 44.

[9] Nội trấn là các trấn vùng đồng bằng nằm trong nội địa.

[10] Ngoại trấn là các trấn miền núi và giáp với biên giới.

[11] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 3, bản dịch Viện Sử học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002, trg 226.

[12] Số liệu căn cứ theo Đi Nam nht thng chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn.

Nguyễn Thu Hoài