09:38 PM 17/04/2025  | 

Thời kỳ thuộc địa Pháp, địa giới hành chính Việt Nam biến động khá lớn. Tại Bắc kỳ, người Pháp thành lập 2 thành phố là Hà Nội, Hải Phòng và 16 tỉnh mới. Tại Trung kỳ, thành lập 1 thành phố Đà Nẵng và 6 tỉnh mới. Tại Nam kỳ, từ 6 tỉnh cũ (Lục tỉnh) người Pháp đã chia tách thành 3 thành phố là Sài Gòn, Chợ Lớn và thành phố tự trị Cap Saint Jacques (Vũng Tàu), 1 đơn vị đảo (Côn Đảo) và 20 tỉnh. Như vậy cho đến trước năm 1945, địa giới hành chính Việt Nam bao gồm 73 đơn vị cấp tỉnh, 344 huyện/quận, 1949 tổng, 18577 xã/thôn.

Sau cải cách của vua Minh Mệnh đến trước khi có sự can thiệp của Pháp, tổ chức đơn vị hành chính tại Việt Nam khá ổn định và ít biến động. Năm 1862 (tức năm Tự Đức 15) thực dân Pháp đã ép triều đình Huế ký Hiệp ước nhượng toàn bộ vùng đất 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và đảo Côn Lôn cho Pháp. Năm 1874 (tức năm Tự Đức 27) triều đình Huế lại ký với Pháp một hiệp ước khác, nhượng nốt 3 tỉnh miền Tây gồm An Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên và đảo Phú Quốc. Như vậy, ngay từ năm 1862, thực dân Pháp đã chính thức can thiệp vào Nam kỳ, tức phần đất từ phía Nam tỉnh Bình Thuận trở vào Nam.

Năm 1884, triều đình nhà Nguyễn buộc phải ký với Pháp một Hiệp ước tiếp theo, còn gọi là Hiệp ước Patenôtre, thừa nhận quyền cai trị của Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Với Hiệp ước này, Pháp đã chia Việt Nam làm ba xứ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine), mỗi kỳ có một chế độ cai trị riêng. Trong đó, Bắc Kỳ (từ Ninh Bình trở ra Bắc) và Trung Kỳ (từ Thanh Hóa đến Bình Thuận) là xứ Pháp bảo hộ, triều đình nhà Nguyễn có quyền kiểm soát trên danh nghĩa; Nam Kỳ (từ Đồng Nai đến Hà Tiên) là xứ thuộc địa hoàn toàn do Pháp quản lý. Bộ máy trị sự gồm có Thống sứ đứng đầu tại Bắc kỳ, Khâm sứ đứng đầu tại Trung kỳ và Thống đốc đứng đầu tại Nam kỳ.

Về mặt danh nghĩa, đến năm 1945, chính quyền quân chủ nhà Nguyễn mới kết thúc nhưng sau khi có sự can thiệp của Pháp, vai trò của triều đình hầu như mất dần, mọi vấn đề quan trọng đều do người Pháp quyết định. Chính quyền thuộc địa Pháp đã thực hiện nhiều thay đổi trong phân cấp và điều chỉnh địa giới hành chính tại Việt Nam bằng hàng loạt các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương và của các viên đứng đầu cấp kỳ.

  1. Tại Bắc kỳ:

Trước khi chính thức trở thành xứ bảo hộ, Bắc kỳ gồm 13 tỉnh thành lập từ thời vua Minh Mệnh. Trong thời kỳ Pháp cai trị, nhiều thay đổi về tổ chức đơn vị hành chính đã diễn ra tại Bắc kỳ.

Tính đến năm 1945, người Pháp đã thành lập mới tại Bắc kỳ 2 thành phố là Hà Nội, Hải Phòng và 16 tỉnh là Bắc Giang, Bắc Kạn, Hà Đông, Hà Giang, Hà Nam, Hải Ninh, Hòa Bình, Kiến An, Lai Châu, Lào Cai, Phú Thọ, Phúc Yên, Sơn La, Thái Bình, Vĩnh Yên, Yên Bái. Đồng thời xóa bỏ 2 tỉnh cũ là Hà Nội và Hưng Hóa. Cụ thể:

- Ngày 19/7/1888, Tổng thống Pháp ban hành Sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội trên cơ sở 2 huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức tỉnh Hà Nội.

- Ngày 19/7/1888, Tổng thống Pháp ban hành Sắc lệnh thành lập thành phố Hải Phòng trên cơ sở một phần đất đai của tỉnh Hải Phòng.

- Năm 1886, tách 2 châu của tỉnh Hưng Hóa và 1 huyện của tỉnh Sơn Tây thành lập tỉnh Mường, còn gọi là tỉnh Chợ Bờ. Năm 1888, đổi là tỉnh Phương Lâm. Năm 1891, đổi là tỉnh Hòa Bình.

- Năm 1886, thành lập khu quân sự dưới quyền Công sứ Pháp, gọi tên là Lào Cai hay Lão Nhai. Năm 1907, đổi thành tỉnh dân sự Lào Cai.

- Năm 1886, thành lập khu quân sự dưới quyền Công sứ Pháp, gọi tên là Sơn La. Năm 1895, đổi là tỉnh Vạn Bú. Năm 1904, đổi là tỉnh Sơn La.

- Năm 1890, thành lập tỉnh Hà Nam từ phủ Lí Nhân cũ của tỉnh Hà Nội.

- Năm 1890, thành lập tỉnh Thái Bình trên cơ sở 2 phủ Kiến Xương, Thái Bình (tỉnh Nam Định) và huyện Thần Khê (tỉnh Hưng Yên).

- Năm 1891, thành lập khu quân sự Hà Giang tách từ phủ Tương An tỉnh Tuyên Quang, sau đổi là tỉnh Hà Giang.

- Năm 1895, thành lập tỉnh Bắc Giang trên cơ sở 2 phủ Lạng Giang, Đa Phúc của tỉnh Bắc Ninh.

- Năm 1896, thành lập khu quân sự Bắc Kạn trên cơ sở 4 châu Bạch Thông, Chợ Rã, Thông Hóa, Cảm Hóa thuộc tỉnh Thái Nguyên. Năm 1900, đổi là tỉnh Bắc Kạn.

- Năm 1898, tách thành phố Hải Phòng khỏi tỉnh Hải Phòng, phần còn lại đổi là tỉnh Phù Liễn. Năm 1906, đổi thành tỉnh Kiến An.

- Năm 1899, thành lập tỉnh Vĩnh Yên trên cơ sở 5 huyện thuộc tỉnh Sơn Tây và 1 huyện thuộc Thái Nguyên.

- Năm 1900, thành lập tỉnh Yên Bái trên cơ sở 3 huyện/châu của tỉnh Hưng Hóa và 1 châu của tỉnh Tuyên Quang.

- Năm 1901, thành lập tỉnh Phù Lỗ tách từ tỉnh Bắc Ninh. Năm 1904, đổi là tỉnh Phúc Yên. Năm 1913, xóa bỏ tỉnh Phúc Yên thành lập Đại Lí Phúc Yên. Năm 1923, tái lập tỉnh Phúc Yên.

- Năm 1902, đổi tên tỉnh Hà Nội (phần còn lại sau khi thành lập thành phố Hà Nội và tỉnh Hà Nam) thành tỉnh Cầu Đơ. Năm 1904, đổi là tỉnh Hà Đông.

- Năm 1903, thành lập tỉnh Phú Thọ trên cơ sở đổi tên từ tỉnh Hưng Hóa.

- Năm 1906, thành lập tỉnh Hải Ninh từ phủ Hải Ninh tỉnh Quảng Yên.

- Năm 1909, thành lập tỉnh Lai Châu trên cơ sở tách châu Lai và một phần các châu Quỳnh Nhai, Điện Biên thuộc tỉnh Sơn La.

Cho đến cuối thời Pháp thuộc, tổ chức đơn vị hành chính các cấp tại Bắc kỳ gồm[1]:

+29 đơn vị cấp tỉnh: 2 thành phố (Hà Nội, Hải Phòng) và 27 tỉnh (Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Đông, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Ninh, Quảng Yên, Kiến An, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hòa Bình, Phú Thọ, Sơn Tây, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái);

+ 177 đơn vị cấp huyện và tương đương[2]: 35 phủ, 57 châu, 85 huyện;

+ 1.212 tổng, 8.970 xã, 28 phường.

Bản đồ hành chính Bắc kỳ khoảng đầu thế kỷ XX, in trong tập Atlas về Đông Dương

Indochine française (1887-1946) - Cartes et plans”

Nguồn: https://data.bnf.fr/fr/11395405/indochine_francaise_service_geographique/

 

  1. Tại Trung kỳ:

Trước khi có sự can thiệp chính thức của Pháp về mặt hành chính, Trung kỳ gồm 1 phủ Thừa Thiên và 11 tỉnh là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà và Bình Thuận. Trong quá trình cai trị, người Pháp đã thành lập thêm 1 thành phố Đà Nẵng và 6 tỉnh là Đồng Nai Thượng, Ninh Thuận (còn gọi là Phan Rang), Đắc Lắc, Kon Tum, Pleiku, Lâm Viên. Cụ thể:

- Năm 1899, thành lập thành phố Đà Nẵng trên cơ sở một phần đất đai thuộc tỉnh Quảng Nam;

- Năm 1899, thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng trên cơ sở tách vùng thượng lưu sông Đồng Nai thuộc tỉnh Bình Thuận;

- Năm 1901, thành lập tỉnh Ninh Thuận trên cơ sở các huyện Yên Phước, Tân Khai thuộc tỉnh Bình Thuận;

- Năm 1904, thành lập tỉnh Đắc Lắc trên cơ sở phần đất phía Tây các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa;

- Năm 1905, thành lập tỉnh Pleiku trên cơ sở một số xã vùng dân tộc miền núi tỉnh Bình Định;

- Năm 1913, thành lập tỉnh Kon Tum trên cơ sở Đại lý Kon Tum thuộc tỉnh Bình Định;

- Năm 1916, thành lập tỉnh Lâm Viên trên cơ sở Đại lí Đà Lạt và Đại lí Di Linh thuộc tỉnh Bình Thuận.

Như vậy, đến trước năm 1945, toàn bộ Trung kỳ gồm[3]:

+ 19 đơn vị cấp tỉnh: 1 thành phố Đà Nẵng và 18 tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Đắc Lắc, Đồng Nai Thượng, Kon Tum, Lâm Viên, Ninh Thuận, Pleiku);

+ 93 đơn vị cấp huyện và tương đương: 38 phủ, 48 huyện, 6 châu, 1 đồn;

+ 525 tổng; 8.302 xã, 38 phường.

Bản đồ hành chính Trung kỳ khoảng đầu thế kỷ XX, in trong tập Atlas về Đông Dương “Indochine française (1887-1946) - Cartes et plans”

Nguồn: https://data.bnf.fr/fr/11395405/indochine_francaise_service_geographique/

 

  1. Tại Nam kỳ:

Trong thời kỳ Pháp thống trị, Nam kỳ là nơi có nhiều biến động nhất về tổ chức hành chính. Từ 6 tỉnh (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) và các đảo (Côn Lôn, Phú Quốc), Nam kỳ biến đổi cơ bản như sau:

          Năm 1876, Thống đốc Tổng tư lệnh quân đội Pháp ban hành Nghị định phân chia Nam kỳ thành 4 vùng hành chính gồm 19 khu. Trong đó:

  • Vùng Sài Gòn gồm 5 khu là Sài Gòn, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hoà và Bà Rịa.
  • Vùng Mỹ Tho gồm 4 khu là Mỹ Tho, Tân An, Gò Công và Chợ Lớn.
  • Vùng Vĩnh Long gồm 4 khu là Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh và Sa Đéc.
  • Vùng Bát Xắc (Bassac) gồm 6 khu là Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ôn và Sóc Trăng.

          Tại mỗi vùng hành chính, đặt một viên Thanh tra người Pháp đặc trách các công việc của bản xứ.

          Năm 1880, tách toàn bộ thành phố Sài Gòn, thành phố Chợ Lớn và một số xã lân cận thuộc khu Sài Gòn và khu Chợ Lớn thành một khu mới, gọi tên là Khu Sài Gòn - Chợ Lớn.

          Năm 1899, Toàn quyền Đông dương ra Nghị định đổi gọi các “Khu” thành “Tỉnh” và phân chia Nam kỳ thành 3 miền. Trong đó:

  • Miền Đông gồm 4 tỉnh: Bà Rịa, Biên Hòa, Tây Ninh, Thủ Dầu Một.
  • Miền Trung gồm 9 tỉnh: Bến Tre, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Tân An, Trà Vinh, Vĩnh Long.
  • Miền Tây gồm 7 tỉnh: Bạc Liêu, Cần Thơ, Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Sóc Trăng.

          Đến cuối thời Pháp thuộc, toàn bộ 6 tỉnh Nam kỳ cũ được chia tách thành các đơn vị hành chính như sau[4]:

+ 25 đơn vị hành chính cấp tỉnh gồm: 3 thành phố là Sài Gòn, Chợ Lớn, Vũng Tàu, 1 đảo Côn Đảo và 20 tỉnh (Bà Rịa, Bạc Liêu, Bến Tre, Biên Hòa, Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tân Bình, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Vĩnh Long)[5].

+ 74 quận;

+ 212 tổng; 1.305 xã, 3 khu phố.

Bản đồ hành chính Nam kỳ khoảng đầu thế kỷ XX, in trong tập Atlas về Đông Dương “Indochine française (1887-1946) - Cartes et plans”

Nguồn: https://data.bnf.fr/fr/11395405/indochine_francaise_service_geographique/

 

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Công báo hành chính Đông Dương thuộc Pháp (Journal officiel de l’Indochine française).
  2. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Công báo hành chính Nam kì thuộc Pháp (Bulletin administratif de la Cochinchine française).
  3. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Niên giám hành chính Đông Dương thuộc Pháp (Annuaire administratif de l’Indochine française).
  4. Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục.
  5. Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí.
  6. Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đồng Khánh địa dư chí.
  7. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch của Viện Sử học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005.
  8. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, (Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch; Đào Duy Anh hiệu đính), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
  9. Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.
  10.  Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010.

 

Nguyễn Thu Hoài

Trung tâm Lưu trữ quốc gia I

 

Đón xem Kỳ 3: Địa giới hành chính Việt Nam từ năm 1945 đến 1975.

 

[1] Số liệu căn cứ theo Niên giám thống kê Đông Dương năm 1936 (Annuaire statistique de l’Indochine)/Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.

[2] Thời kỳ Pháp thuộc, đơn vị hành chính cấp Phủ tương đương cấp Huyện/Châu.

[3] Số liệu căn cứ theo Niên giám thống kê Đông Dương năm 1936 (Annuaire statistique de l’Indochine)/Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.

[4] Số liệu căn cứ theo Niên giám thống kê Đông Dương năm 1936 (Annuaire statistique de l’Indochine)/Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.

[5] Năm 1944 thành lập thêm tỉnh Tân Bình từ một phần đất đai của tỉnh Gia Định.