Sau Cách mạng tháng 8-1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã tổ chức lại các đơn vị hành chính toàn quốc. Tính đến trước cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội tháng 1/1946, Việt Nam có 72 đơn vị hành chính cấp tỉnh[1], trong đó:
+ Bắc Bộ gồm 3 thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định) và 27 tỉnh: Bắc Giang, Bắc Kạn, Bắc Ninh, Cao Bằng, Hà Đông, Hà Giang, Hà Nam, Hải Dương, Hải Ninh, Hòa Bình, Hưng Yên, Kiến An, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Phúc Yên, Quảng Yên, Sơn La, Sơn Tây, Thái Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Yên Bái[2].
+ Trung Bộ gồm 3 thành phố (Đà Nẵng, Huế, Vinh) và 18 tỉnh: Bình Định, Bình Thuận,, Đắc Lắc, Đồng Nai Thượng, Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Kon Tum, Lâm Viên, Nghệ An, Phan Rang, Phú Yên,Pleiku, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thanh Hóa, Thừa Thiên,
+ Nam Bộ gồm 1 thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn và 20 tỉnh: Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa, Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Vĩnh Long[4].
Trong đó: Bắc bộ gồm 30 đơn vị (sáp nhập thành phố Nam Định vào tỉnh Nam Định, thành lập thêm Đặc khu Hòn Gai ngày 19/7/1946). Trung bộ gồm 18 đơn vị (sáp nhập 3 thành phố: Vinh vào tỉnh Nghệ An, Huế vào tỉnh Thừa Thiên, Đà Nẵng vào tỉnh Quảng Nam). Nam bộ gồm 21 đơn vị như cũ[5].
Khu 1 (4 đơn vị): Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phúc Yên.
Khu 2 (3 đơn vị): Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
Khu 3 (5 đơn vị): Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình.
Khu 4 (6 đơn vị): Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.
Khu 5 (5 đơn vị): Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum, Gia Lai.
Khu 6 (7 đơn vị): Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng.
Khu 7 (7 đơn vị): Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Sài Gòn.
Khu 8 (7 đơn vị): Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre.
Khu 9 (7 đơn vị): Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá.
Khu 10 (6 đơn vị): Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên.
Khu 11 (3 đơn vị): Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây.
Khu 12 (6 đơn vị): Bắc Giang, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Hải Ninh, Hòn Gai, Quảng Yên.
Khu 14 (3 đơn vị): Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình.
Từ năm 1948 đến năm 1953, chính quyền Việt Nam Dân chủ cộng hòa lại phân chia các khu vực hành chính thành các Khu và Liên Khu[6]. Trong đó toàn quốc gồm 59 đơn vị (1 thành phố Hà Nội trực thuộc trung ương và 58 đơn vị cấp tỉnh) được phân thành 7 Khu và Liên Khu gồm[7]:
- Thành phố Hà Nội là đơn vị trực thuộc Trung ương.
- Liên khu Việt Bắc (13 đơn vị): Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc (Phúc Yên-Vĩnh Yên), Tuyên Quang, Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Ninh, Quảng Yên và Đặc khu Hòn Gai.
- Khu Tây Bắc (4 đơn vị): Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu.
- Khu Tả ngạn (5 đơn vị): Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Kiến An và thành phố Hải Phòng.
- Liên khu 3 (7 đơn vị): Hà Đông, Hà Nam, Hòa Bình, Sơn Tây, Nam Định, Ninh Bình và thành phố Nam Định.
- Liên khu 4 (6 đơn vị): Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.
- Liên khu miền Nam Trung Bộ (11 đơn vị): Quảng Nam-Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Lâm Đồng (Lâm Viên-Đồng Nai Thượng), Gia Lai-Kon Tum, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Pleiku.
- Liên khu Nam Bộ (12 đơn vị): Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn và 2 phân khu:
+ Phân khu miền Đông: Gia Định Ninh (Gia Định-Tây Ninh), Thủ Biên (Thủ Dầu Một-Biên Hòa), Bà Chợ (Bà Rịa-Chợ Lớn), Mỹ Tho (Mỹ Tho, Tân An, Gò Công), Long Châu Sa (Sa Đéc và ½ Long Xuyên, ½ Châu Đốc).
+ Phân khu miền Tây: Bến Tre, Cần Thơ, Vĩnh Trà (Vĩnh Long-Trà Vinh), Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Châu Hà (Hà Tiên và ½ Long Xuyên, ½ Châu Đốc).
Bản đồ Đông Dương sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, in trên tờ Bưu điện Chủ nhật ngày 12/9/1954. Nguồn: davidrumsey.com
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Ranh giới từ Vĩ tuyến 17 trở ra Bắc, thuộc quyền quản lý của chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, được phân chia thành 30 tỉnh, 2 thành phố trực thuộc trung ương và 2 đặc khu gồm[8]:
- 2 thành phố trực thuộc trung ương: Hà Nội, Hải Phòng
- Khu vực Bắc bộ (26 tỉnh): Bắc Giang, Bắc Ninh, Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Đông, Hà Giang, Hà Nam, Hải Dương, Hải Ninh, Hòa Bình, Hưng Yên, Kiến An, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Quảng Yên, Sơn La, Sơn Tây, Thái Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Yên Bái.
- Khu vực Trung bộ (4 tỉnh): Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
- 2 Đặc khu: Hòn Gai, Vĩnh Linh.
Năm 1957, tổ chức đơn vị hành chính tại miền Bắc lại được phân thành các Khu gồm: Khu tự trị Thái Mèo (Sắc lệnh 230-SL ngày 29/4/1955); Khu tự trị Việt Bắc (Sắc lệnh số 268-SL ngày 01/7/1956), Khu hành chính Lao Hà Yên, Khu Tả ngạn, Liên khu 3, Liên khu 4.
Từ cuối năm 1958 đến năm 1968, chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa thực hiện bãi bỏ các Khu và Liên khu thành lập trong kháng chiến, đồng thời hợp nhất một số tỉnh như sau:
- Bãi bỏ cấp hành chính Liên khu 3, Liên khu 4, Khu Tả ngạn (Sắc lệnh 92-SL ngày 01/12/1958 của CT nước VNDCCH);
- Bãi bỏ Khu tự trị Lao Hà Yên (Sắc lệnh 20-SL ngày 23/3/1959 của CT nước VNDCCH);
- Đổi tên Khu tự trị Thái Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc, gồm 3 tỉnh Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ (Nghị quyết Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ 5 ngày 27/10/1962);
- Hợp nhất tỉnh Kiến An vào thành phố Hải Phòng (Nghị quyết Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ 5 ngày 27/10/1962);
- Hợp nhất 2 tỉnh Bắc Giang-Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc (Nghị quyết Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ 5 ngày 27/10/1962);
- Hợp nhất tỉnh Hải Ninh và Khu Hồng Quảng thành tỉnh Quảng Ninh (Nghị quyết Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ 7 ngày 30/10/1963);
- Hợp nhất 2 tỉnh Bắc Kạn-Thái Nguyên thành tỉnh Bắc Thái (Nghị quyết 103-NQ/TVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 21/4/1965);
- Hợp nhất 2 tỉnh Hà Đông-Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây (Nghị quyết 103-NQ/TVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 21/4/1965);
- Hợp nhất 2 tỉnh Nam Định-Hà Nam thành tỉnh Nam Hà (Nghị quyết 103-NQ/TVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 21/4/1965);
- Hợp nhất 2 tỉnh Hải Dương-Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng (Nghị quyết số 504-NQ/TVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 26/01/1968);
- Hợp nhất 2 tỉnh Vĩnh Phúc-Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú (Nghị quyết số 504-NQ/TVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 26/01/1968).
Đến năm 1975, tổ chức đơn vị hành chính Việt Nam từ Vĩ tuyến 17 trở ra Bắc gồm:
+25 đơn vị cấp tỉnh: 2 thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội, Hải Phòng; 23 tỉnh: Bắc Thái (Bắc Kạn-Thái Nguyên), Cao Bằng, Hà Bắc (Bắc Giang-Bắc Ninh), Hà Giang, Hà Tây (Hà Đông-Sơn Tây), Hải Hưng (Hải Dương-Hưng Yên), Hòa Bình, Lào Cai, Lạng Sơn, Nam Hà (Hà Nam-Nam Định), Ninh Bình, Quảng Ninh (Hải Ninh và khu Hồng Quảng), Thái Bình, Tuyên Quang, Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc-Phú Thọ), Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình [9];
+ 1 Khu vực Vĩnh Linh.
+ 4 thành phố trực thuộc tỉnh: Nam Định, Thái Nguyên, Việt Trì, Vinh;
+ 26 thị xã; 245 huyện; 7 khu phố.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, lấy Vĩ tuyến 17 tại Quảng Trị làm ranh giới. Địa giới từ Vĩ tuyến 17 trở vào Nam do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát, gồm 33 tỉnh[10].
- Từ Vĩ tuyến 17 đến hết Nam Trung bộ (13 tỉnh): Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Pleiku, Đắc Lắc, Đồng Nai Thượng;
- Nam bộ (20 tỉnh): Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa, Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Vĩnh Long.
Năm 1956, chính quyền Đệ Nhất Cộng hòa chia lãnh thổ thành 2 phần, gọi là Trung phần và Nam phần; trong tỉnh lại chia thành các quận, trong quận có tổng, trong tổng có xã. Đồng thời thành lập một số tỉnh mới, gồm:
- Tỉnh Tam Cần (Sắc lệnh số 16-NV ngày 9/02/1956);
- Tỉnh Mộc Hóa (Sắc lệnh số 21-NV ngày 17/02/1956);
- Tỉnh Phong Thạnh (Sắc lệnh số 22-NV ngày 17/02/1956);
- Tỉnh Cà Mau (Sắc lệnh số 32-NV ngày 9/3/1956).
Đặc biệt, ngày 22/10/1956, Tổng thống VNCH ban hành Sắc lệnh số 143-NV thay đổi địa giới, tên một số tỉnh và tỉnh lị tại miền Nam Việt Nam, trong đó:
- Tách tỉnh Biên Hòa cũ thành 4 tỉnh: Biên Hòa, Bình Long, Long Khánh, Phước Long;
- Tách tỉnh Gia Định cũ thành các tỉnh: Gia Định, Tây Ninh, Long An và thành phố Sài Gòn;
- Sáp nhập một phần các tỉnh Đồng Nai Thượng và Bình Thuận để thành lập tỉnh Bình Tuy;
- Sáp nhập tỉnh Bà Rịa, thành phố Vũng Tàu và quần đảo Trường Sa thành tỉnh Phước Tuy;
- Đổi tên tỉnh Thủ Dầu Một thành tỉnh Bình Dương;
- Đổi tên tỉnh Mộc Hóa mới thành lập thành tỉnh Kiến Tường;
- Đổi tên tỉnh Phong Thạnh mới thành lập thành tỉnh Kiến Phong;
- Hợp nhất 2 tỉnh Mĩ Tho và Gò Công thành tỉnh Định Tường;
- Đổi tên tỉnh Bến Tre thành tỉnh Kiến Hòa;
- Hợp nhất 2 tỉnh Sa Đéc và Vĩnh Long thành tỉnh Vĩnh Long mới;
- Hợp nhất 2 tỉnh Trà Vinh và Tam Cần thành tỉnh Vĩnh Bình;
- Hợp nhất 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc thành tỉnh An Giang;
- Đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh;
- Hợp nhất 2 tỉnh Hà Tiên và Rạch Giá thành tỉnh Kiên Giang;
- Hợp nhất 2 tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng thành tỉnh Ba Xuyên;
- Đổi tên tỉnh Cà Mau thành tỉnh An Xuyên;
- Thành lập mới tỉnh Côn Sơn, trên cơ sở đơn vị hành chính Côn Đảo.
Tổ chức đơn vị hành chính giai đoạn này gồm 36 đơn vị (35 tỉnh và 1 thành phố). Cụ thể[11]:
- Trung phần gồm 13 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Pleiku, Đắc Lắc, Đồng Nai Thượng;
- Nam phần gồm 22 tỉnh và 1 thành phố: Biên Hòa, Bình Long, Long Khánh, Phước Long, Gia Định, Tây Ninh, Long An, Bình Tuy, Phước Tuy, Bình Dương, Kiến Tường, Kiến Phong, Định Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Phong Dinh, Kiên Giang, Ba Xuyên, An Xuyên, Côn Sơn và thành phố Sài Gòn.
Năm 1963, chính quyền Đệ Nhị Cộng hòa lại chia lãnh thổ thành 4 phần là: Cao nguyên Trung phần, Trung nguyên Trung phần, Đông Nam phần và Tây Nam phần, gồm 44 tỉnh[12]. Cụ thể:
- , gồm 10 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
- Cao nguyên Trung phần, gồm 7 tỉnh: Đắc Lắc, Kon Tum, Lâm Đồng, Pleiku, Phú Bổn, Quảng Đức, Tuyên Đức.
- Đông Nam phần, gồm 12 tỉnh: Biên Hòa, Bình Dương, Bình Long, Bình Tuy, Gia Định, Hậu Nghĩa, Long Khánh, Phước Long, Phước Thành, Phước Tuy, Tây Ninh và Côn Sơn.
- , gồm 15 tỉnh: An Giang, An Xuyên, Ba Xuyên, Bạc Liêu, Chương Thiện, Định Tường, Gò Công, Kiên Giang, Kiến Hòa, Kiến Phong, Kiến Tường, Long An, Phong Dinh, Vĩnh Bình, Vĩnh Long.
Bản đồ hình thế chính trị Việt Nam tỷ lệ 1/3.000.000, in theo Giấy phép số 2550 ngày 25/12/1965 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Nguồn: https://www.geographicus.com/P/AntiqueMap/
Cho đến trước năm 1975, đơn vị hành chính thuộc quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, gồm: 1 đô thành Sài Gòn, 44 tỉnh, 2 đảo Phú Quốc, Côn Đảo; 10 thị xã, 259 quận[13].
Song song với chính quyền Việt Nam Cộng hòa, từ Vĩ tuyến 17 trở vào Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (sau là Cộng hòa miền Nam Việt Nam) cũng tổ chức các đơn vị hành chính tại đây theo một cách riêng.
Trên thực tế, khu vực Nam bộ từ sau 1945, đã có một số điều chỉnh tổ chức đơn vị hành chính để phù hợp với tình hình kháng chiến tại đây. Cụ thể:
- Ngày 12/9/1947, Chỉ thị số 50/CT của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ thành lập 2 tỉnh mới là: Long Châu Tiên (ở bờ trái sông Hậu) và Long Châu Hậu (ở bờ phải sông Hậu) trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính các tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên.
- Ngày 30/10/1950, Nghị định số 58-TTg của Thủ tướng Chính phủ lại hợp nhất 2 tỉnh Hà Tiên và Long Châu Hậu thành tỉnh Long Châu Hà.
- Ngày 20/3/1951, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam bộ đề nghị sáp nhập 5 tỉnh (Long Châu Tiền, Sa Đéc, Tân An, Mĩ Tho, Gò Công) để chia thành 3 tỉnh (Long Châu Sa, Đồng Tháp Mười và Mĩ Tho). Trong đó, sáp nhập 2 tỉnh Long Châu Tiền và Sa Đéc thành tỉnh Long Châu Sa; sáp nhập một phần các tỉnh Tân An và Mỹ Tho thành tỉnh Đồng Tháp Mười, sáp nhập một phần tỉnh Mỹ Tho và toàn bộ tỉnh Gò Công thành tỉnh Mĩ Tho mới.
- Năm 1954, chính quyền Việt minh giải thể các tỉnh Long Châu Sa, Long Châu Hà, Đồng Tháp Mười đồng thời khôi phục lại các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Gò Công và Hà Tiên như cũ.
- Năm 1962, Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam bộ tại Quảng Nam đã tách tỉnh Quảng Nam thành 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà.
- Tháng 5 năm 1974, chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định tái lập 3 tỉnh: Long Châu Hà (sáp nhập từ 3 tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên), Long Châu Tiền (từ tỉnh An Giang) và Sa Đéc (từ tỉnh Sa Đéc và một phần của tỉnh Kiến Phong).
Tính đến trước năm 1975, tổ chức đơn vị hành chính tại miền Nam Việt Nam theo sắp xếp của chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam, gồm[14]:
-2 thành phố là Sài Gòn, Đà Lạt;
- 38 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy, Lâm Đồng, Tuyên Đức, Long Khánh, Bà Rịa, Biên Hòa, Bình Phước, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bến Tre, Long An, Kiến Tường, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Kiến Phong, Long Châu Tiền, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Giá, Long Châu Hà, Bạc Liêu, Cà Mau./.
Nguyễn Thu Hoài
Trung tâm Lưu trữ quốc gia I
Đón xem Kỳ 4: Địa giới hành chính Việt Nam từ năm 1975 đến nay.
[1] Số liệu căn cứ theo Danh sách các tỉnh, thành phố đính kèm Sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa ấn định ngày Tổng tuyển cử và thể lệ cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội (gồm 71 đơn vị hành chính). Sắc lệnh số 72 ngày 2/12/1945 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời VNDCCH bổ khuyết đại biểu của tỉnh, thành phố theo Sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 (theo đó bổ sung thêm thành phố Đà Nẵng).
[2] Bắc bộ trước năm 1945 gồm 29 đơn vị cấp tỉnh, năm 1946 gồm 30 đơn vị (thêm 1 thành phố là Nam Định).
[3] Trung bộ trước năm 1945 gồm 19 đơn vị cấp tỉnh, năm 1946 gồm 21 đơn vị (thêm 2 thành phố Huế và Vinh).
[4] Nam bộ trước năm 1945 gồm 25 đơn vị cấp tỉnh, năm 1946 gồm 21 đơn vị (sáp nhập 2 thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn, xóa bỏ tỉnh Tân Bình, sáp nhập thành phố Vũng Tàu và đảo Côn Đảo vào tỉnh Bà Rịa).
[5] Số liệu căn cứ theo Việt Nam những thay đổi địa danh địa giới hành chính 1945-2002, NXB Thông tấn, 2003.
[6] Liên khu Việt Bắc thành lập ngày 4/11/1949 (Sắc lệnh số 127-SL của Chủ tịch CP VNDCCH);
- Khu Tây Bắc thành lập ngày 28/1/1953 (Sắc lệnh số 134-SL của Chủ tịch nước VNDCCH);
- Khu Tả Ngạn thành lập ngày 24/5/1952 (Nghị quyết 08 NQ-TƯ của BCHTW Đảng Lao động Việt Nam);
- Liên khu Nam Bộ được phân thành 2 phân khu Miền Đông và Miền Tây ngày 12/10/1951 (Nghị định số 252/NB-51 của UBKCHC Nam bộ).
[7] Bắc bộ vẫn gồm 30 đơn vị so với giai đoạn 1946-1948 (tách trở lại thành phố Nam Định, sáp nhập 2 tỉnh Phúc Yên-Vĩnh Yên thành tỉnh Vĩnh Phúc).
- Trung bộ gồm 17 đơn vị, giảm 1 đơn vị so với giai đoạn 1946-1948 (sáp nhập 2 tỉnh Lâm Viên-Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng).
- Nam bộ gồm 12 đơn vị, giảm 9 đơn vị so với giai đoạn 1946-1948 (sáp nhập các tỉnh Gia Định-Tây Ninh thành tỉnh Gia Định Ninh; Thủ Dầu Một-Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên; Bà Rịa-Chợ Lớn thành tỉnh Bà Chợ; Mỹ Tho-Tân An-Gò Công thành tỉnh Mỹ Tho; Vĩnh Long-Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Trà; Sa Đéc và ½ Long Xuyên, ½ Châu Đốc thành tỉnh Long Châu Sa; Hà Tiên và ½ Long Xuyên, ½ Châu Đốc thành tỉnh Long Châu Hà).
[8] Số liệu căn cứ theo Việt Nam những thay đổi địa danh địa giới hành chính 1945-2002, NXB Thông tấn, 2003.
[9] Trong đó 5 tỉnh Cao Bằng, Bắc Thái, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang thuộc Khu tự trị Việt Bắc; 3 tỉnh Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ thuộc Khu tự trị Tây Bắc. Hai Khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc được giải thể ngày 27/12/1975 tại Nghị quyết Quốc hội khóa V, kỳ họp thứ 2.
[10] Số lượng và tên tỉnh được giữ nguyên như cuối thời kỳ thuộc Pháp.
[11] Trung phần vẫn giữ nguyên số lượng 13 tỉnh so với giai đoạn trước; Nam phần tăng 3 đơn vị.
[12] Năm 1963 tăng 8 đơn vị so với năm 1956 gồm: 1. Đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng (Nghị định số 170-NV ngày 19/5/1958 của Tổng thống VNCH); 2. Thành lập tỉnh Phú Bổn (Sắc lệnh số 186 -NV ngày 1/9/1962); 3. Thành lập tỉnh Quảng Đức (Sắc lệnh số 24-NV ngày 23/1/1959); 4. Thành lập tỉnh Quảng Tín (Sắc lệnh số 162-NV ngày 31/7/1962); 5. Thành lập tỉnh Tuyên Đức (Sắc lệnh số 261-NV ngày 19/5/1958); 6. Sáp nhập Đô thành Sài Gòn vào tỉnh Gia Định (Sắc lệnh sô 213-QP ngày 26/11/1962); 7. Tái lập tỉnh Bạc Liêu từ tỉnh Ba Xuyên; 8. Thành lập tỉnh Chương Thiện (Sắc lệnh số 244-NV ngày 24/12/1961); 9. Tái lập tỉnh Gò Công từ tỉnh Định Tường (Sắc lệnh số 36-TTP ngày 20/12/1963); 10. Thành lập tỉnh Hậu Nghĩa (Sắc lệnh 124-NV ngày 15/10/1963); 11. Thành lập tỉnh Phước Thành (Sắc lệnh số 25-NV ngày 23/1/1959).
[13] Số liệu căn cứ theo Danh sách đơn vị hành chính thời VNCH năm 1974/Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
So với năm 1966 tăng 3 đơn vị, cụ thể: 1. Tái lập trở lại Đô thành Sài Gòn (Sắc lệnh số 227-QP ngày 9/12/1965); 2. Tái lập tỉnh Châu Đốc (Sắc lệnh số 246 ngày 8/9/1964); 3. Tái lập tỉnh Sa Đéc (Sắc lệnh số 162-SL/ĐUHC ngày 24/9/1966); 4. Thành lập thêm đơn vị đảo Phú Quốc; 5. Giải thể tỉnh Phước Thành (Sắc lệnh số 131-NV ngày 6/7/1965 của Thủ tướng VNCH).