09:45 PM 30/04/2025  | 

Trên bến Đông Ba, bên cạnh cột cờ IX, từ phía sau cầu Đông Ba tới khu Nhượng địa , ta nhìn thấy, phía trước những ngôi nhà tranh, nhiều đồ trang trí đủ màu sắc in bóng xuống dòng sông êm đềm như những mảnh gấm trải trên mặt nước. Nơi ấy là khu sản xuất MÀNH và LỌNG.

Làm mành là một nghề dường như không mấy quan trọng. Tuy nhiên, mành là một vật dụng rất phổ biến, có thể đảm bảo chống lại thời tiết thất thường của các mùa; chúng tô điểm và làm cho nhà cửa trở nên hoành tráng. Chính vì lý do này mà mọi tầng lớp xã hội, không kể sang hèn, giàu nghèo đều thường xuyên sử dụng mành tre trong các dịp lễ nghi và ngay cả trong đời thường.

Ở khắp mọi nơi, ta đều thấy những tấm mành này. Trong cung điện, đình, chùa, quán trọ, nhà riêng, những tấm mành, với ưu điểm là không đắt tiền, đem lại những lợi ích giá trị nhất.

Có 5 loại vật liệu để làm mành: tre cái; chỉ; dầu; phẩm màu; hồ tinh bột hoặc bột nếp.

1. Tre cái[1]: Có thể dùng nhiều loại tre để làm mành nhưng tre cái được ưa chuộng hơn vì thân tre thẳng và dễ gia công. Tre cái mọc nhiều ở vùng cao. Người ta chặt và bó chúng lại rồi mang bán ở kênh Đông Ba[2]. Vì vậy mới có tên là Sông Hàng Bè (la Rivière du Marché des Radeaux).

2. Chỉ: có 4 loại chỉ được sử dụng là chỉ gắm[3]; chỉ gai[4]; chỉ vải[5] và chỉ bảy[6].

3. Dầu: có 2 loại dầu được sử dụng là dầu không màu và nhựa than. Dầu không màu, sáng bóng như nhựa copal. Người ta phủ một lớp dầu này lên mành để chúng sáng bóng. Loại dầu này có rất nhiều ở Quảng Nam, được chiết xuất từ cây dầu rái và được bán trong các lọ nhỏ... Còn nhựa than là sản phẩm được mua từ nước ngoài, dùng để làm bóng mành đen. 

4. Phẩm màu: các loại phẩm màu dùng trong sản xuất mành ở Huế xưa phần lớn được mua từ Trung Hoa, thường là các màu đỏ son (quảng-chu); xanh da trời (phát-dầu thanh); màu lục (phát-dầu lục); vàng kim (thạch-huỳnh); màu đỏ son của Trung Quốc (son tam-hưng); màu hồng dơn; màu tím (quảng tím); màu trắng (phấn-dầu); màu bồ hóng (khói-đèn); màu mực Tàu; màu nâu vàng (thổ-huỳnh) và một số màu khác...

5. Hồ tinh bột hoặc bột nếp: các loại bột này hoàn toàn là sản phẩm của địa phương.

Dụng cụ để làm mành khá đơn giản, đa phần được chế tạo từ tre hoặc gỗ, chỉ có vài dụng cụ bằng kim loại, bao gồm: dao quắm, cưa, cái tréo, cái xa và bàn bện để bện mành. 

Quy trình làm mành gồm 4 công đoạn: chuẩn bị tre, kéo và xe sợi, bện mành, cuối cùng là vẽ và sơn mành.

Màu sắc dùng để trang trí mành thường là những màu tươi sáng như: xanh da trời, xanh lá cây, đỏ, trắng và vàng.

Sản xuất mành. Tranh màu nước của Tôn Thất Sa.
 

Họa tiết trang trí mành. Hình vẽ của Tôn Thất Sa.

 

Tất cả những phẩm màu trên đều được mua từ Trung Hoa nhưng cũng có thể thay bằng một số sản phẩm trong nước. Chẳng hạn để thay thế phẩm trắng, người ta đã tìm thấy đất sét trắng ở khu vực xung quanh Đàn Nam Giao, tuy nhiên sản phẩm này kém chất lượng, chỉ phù hợp với các loại mành thông thường.

Việc trang trí mành gồm ba phần: khung viền, bốn góc và phần trung tâm.

Khung viền thường có cùng một tông màu, phổ biến nhất là một đường xanh lam nằm giữa hai đường màu trắng. Khung được chia thành các ô vuông nhỏ, ngăn cách bởi hoa văn hoạ tiết (hồi văn) hoặc hình lục giác (kim quy), có màu vàng, hoặc đôi khi là các họa tiết dạng hoa thị. Bên trong các ô vuông là những hình vẽ mang ý nghĩa biểu tượng, như các vật dụng cổ (cổ đồ), "tám bảo vật" (bát bửu), những chữ phúc, lộc, thọ theo phong cách cổ, hoặc các họa tiết dây hoa và lá. Bốn góc thường được trang trí với hình dơi, bướm hoặc mây.

Phần họa tiết ở trung tâm được thiết kế phù hợp với mục đích sử dụng của bức mành:

• Hình rồng xuất hiện trên mành trang trí đền thờ, cung điện hoàng gia, cũng như các chùa Phật giáo hoặc đình làng.

• Hình phượng hoàng được dùng cho mành trang trí tư dinh của hoàng hậu, công chúa hoặc gian thờ các nữ thần.

Mành có trang trí hình Phượng hoàng. Tranh màu nước Tr. Phiên.

 

 

 

Mành có trang trí hình vẽ. Tranh màu nước của Tôn Thất Sa.

 

 

• Chữ “Hỷ", chữ "Thọ" được xử lý cách điệu qua các hình dạng vuông hoặc tròn, cùng với hình năm con dơi, thường xuất hiện trên mành dùng trong đám cưới, lễ hội, các buổi biểu diễn sân khấu và nghi lễ truyền thống.

Họa tiết trang trí mành. Chữ Hỷ và chữ Thọ. Hình vẽ của Tôn Thất Sa

 

• Hình hoa quả hoặc hoa rơi thường được sử dụng trên mành trang trí các không gian tang lễ...

Mành có trang trí hình hoa quả. Hình vẽ của Tôn Thất Sa.
 

Dù các họa tiết trang trí trên rất đặc biệt, nhưng quy tắc sử dụng không phải lúc nào cũng được tuân thủ chặt chẽ. Không phải vì thiếu hiểu biết, mà chủ yếu để tiết kiệm chi phí. Thay vì tốn kém cho mỗi dịp lễ, người ta thường tận dụng những tấm mành sẵn có. Hơn nữa, đây cũng không phải là một vấn đề quan trọng.

Mành có trang trí hình phong cảnh, hoa và cành lá cách điệu. Tranh màu nước của Tôn Thất Sa.

 

 

Mành có trang trí hình hoa rơi. Hình vẽ của Tôn Thất Sa

 

Có bốn loại mành:

1. Mành trơn - không được sơn bóng hay trang trí họa tiết.

2. Mành sơn bóng nhưng không có họa tiết - chỉ phủ lớp sơn bảo vệ mà không có hoa văn.

3. Mành đơn giản - chỉ có họa tiết ở khung viền và bốn góc.

4. Mành trang trí hoàn chỉnh - có họa tiết cả ở khung viền, bốn góc và phần trung tâm.

Có ba lý do chính để sử dụng mành:

1. Che chắn gió và nắng: Mành là lựa chọn hữu ích để thay thế bình phong trong việc tránh gió và nắng nóng. Trong các dịp lễ nghi, hội hè hay các buổi biểu diễn, người ta thường dùng mành quây quanh khán đài để chắn gió. Từ đó có câu ca dao:

“Nếu không có mành che chắn
Gió lùa thổi mạnh, đổ bàn thờ thiêng”.

Ngoài ra, mành cũng có thể dùng để đóng kín phòng ngủ, giúp tránh gió lạnh ban đêm. Vào mùa hè, chúng giúp giảm bớt cái nóng oi bức. Tuy nhiên, mành được sử dụng quanh năm, như trong câu hát dân gian:

“Mành thu giăng tối dịu niềm sầu
Mành xuân buông nắng nhớ người phương xa”.

2. Để trang trí căn phòng: Những tấm mành đẹp cũng có thể thu hút khách hàng đến các quán trọ, tiệm cắt tóc và rạp hát, vì khi ở sau tấm mành, người ta không bị người qua đường phát hiện.

3. Tạo nên sự trang nghiêm: Các đền thờ, cung điện, chùa chiền trở nên trang nghiêm hơn nhờ những tấm mành. Người ta thường nói: “Dù chùa có xuống cấp và tượng Phật có mục nát, nhưng vẫn toát lên vẻ uy nghiêm nhờ ba chiếc mành này”.

Mành còn có tác dụng nâng cao giá trị của các chị em phụ nữ: ẩn mình sau tấm mành, ngay cả những người phụ nữ không đẹp cũng tỏ ra duyên dáng. Như trong câu hát: “Tứ phía là mành, bên trong là thân hình ngọc ngà hay làn da sẫm màu, nào ai đoán được?[7]

Tất cả những lý do kể trên đều đã được chứng minh qua các bài dân ca và các câu ngạn ngữ của người Huế xưa. Và đây là những câu điển hình: “Tấm mành làm dịu bớt sự khắc nghiệt của thời tiết; chúng là niềm vui cho đôi mắt; chúng mang lại vẻ uy nghiêm và bí ẩn cho không gian sống”[8].

  Lược dịch từ bài viết của Tôn Thất Sa, giáo sư dạy vẽ tại Trường Kỹ nghệ Huế[9] trong Tạp chí Đô thành Hiếu cổ (Bulletin des Amis du Vieux de Hué), số 4, năm thứ 6, tháng 10-12/1919, tr. 481-494.

 

 

 

       

 

[1] Tre cái thường dùng để làm mọi thứ như đan rổ, rá, thúng, mẹt, mùng, sàng, nia, dậm, giỏ, mành... trong khi đó tre đực thường được dùng làm cọc, đòn gánh...

[2] Kênh Đông Ba được đào dưới thời Gia Long, chạy dọc theo ranh giới phía đông Kinh thành Huế, dài khoảng 3km.

[3] Chỉ gắm: là một loại rong rêu người ta thu gom trên bờ biển và quay thành sợi, được bán theo cân, mỗi cân có trọng lượng bằng 1 quan tiền kẽm và được bán với giá khoảng 1,10 đồng bạc Đông Dương.   

[4] Chỉ gai: là một loại sợi được thu hoạch ở vùng Cam Lộ (Quảng Trị) và được bán với giá khoảng 0,80 đồng bạc Đông Dương/cân.

[5] Chỉ vải: được mua từ Trung Hoa với giá khoảng 2,50 đồng bạc Đông Dương/kg.

[6] Chỉ bảy: là một loại cây cho sợi mọc nhiều ở Quảng Nam, được bán dưới dạng thô, khoảng 0,40 đống bạc Đông Dương/cân. Đây là loại sợi có giá thành rẻ nhất, chính vì thế mà những người làm mành sử dụng rất nhiều. Nhưng nó có nhược điểm là không chắc chắn lắm nên sau khi mua về, người làm mành sẽ phải kéo sợi bằng một cái xa (xa quay sợi-ND).

[7] Nguyên văn tiếng Pháp: “De tout les côtés, des stores et des rideaux: au dedans, un cors de jade ou une peau noirâtre, qui le devinera?”

[8] Nguyên văn tiếng Pháp: “Les stores adoucissent les rigueurs des saisons; ils sont la joie des yeux; ils mettent de la majesté et du mystère dans les appartements

[9] Trường Kỹ nghệ Huế được thành lập vào năm Thành Thái thứ ba (1891), sau khi Sở Công chính Trung Kỳ bị xóa bỏ.

TS. Đào Thị Diến