Khi người Âu đặt chân tới Bắc Kỳ, điều đầu tiên khiến họ ngạc nhiên chính là sự hoạt bát của lực lượng lao động bản xứ. Họ là những người khéo léo, thông minh, ham học hỏi và dễ dàng thích nghi với các kiểu công việc khác nhau.
Trên các tàu hơi nước, trong các nhà máy, v.v…, họ nhanh chóng làm quen và dễ dàng làm chủ cách vận hành các loại máy móc phức tạp nhất. Không gì có thể làm khó họ, ngay cả những công việc nặng nhọc nhất, họ vẫn có thể đảm đương, dù đồng lương ít ỏi và luôn vui vẻ, hòa đồng.
Ở vùng châu thổ, nơi dân cư tập trung đông đúc, nguồn nhân công này có giá rất rẻ. Khi người Pháp bắt đầu cuộc chinh phục, một người bản xứ chỉ nhận mức thù lao 2 hoặc 3 xu/ngày, và hiện mức thù lao tối thiểu đã tăng lên 7 hoặc 8 xu/ngày.
Người Âu hầu như không làm việc chân tay, do đó người bản xứ thay thế họ trong các lĩnh vực thương nghiệp, nông nghiệp hay kỹ nghệ.
Đội ngũ gia nhân là những người dễ bảo, ngoan ngoãn, ít khi chống đối, song dù sao chủ nhà vẫn phải cẩn trọng, không nên tin tưởng tuyệt đối.
Nhiều người Âu vẫn tin tưởng giao cho người hầu bản xứ những nhiệm vụ quan trọng, kể cả việc quản lý nhà cửa và rất hài lòng về sự trung thành của họ.
Phụ nữ Bắc Kỳ giặt chiếu, nguồn: Robert Dubois
Một điều thú vị và cũng khá vui, đó là vấn đề thứ bậc được hình thành giữa những người giúp việc trong cùng một nhà.
Đầu bếp chỉ tập trung nấu nướng còn việc lấy nước - công việc nặng nhọc do một phu khuân vác khác đảm nhiệm. Khi đầu bếp đi chợ, có thể có một người giúp việc theo sau xách đồ, bên dưới họ còn có những người ở cấp thấp hơn để sai bảo.
Dân bản xứ tự nguyện phục tùng, chịu sự quản lý, phân chia quyền hạn khá thoải mái và hiếm khi có thái độ ra lệnh hay coi thường nhau.
Ở dân tộc này, đàn bà làm việc ngang ngửa đàn ông, thậm chí có phần nhiều hơn. Nhiều phụ nữ An Nam kéo những cỗ xe lớn, chất đầy hàng hóa, gánh hàng cồng kềnh, khiến bước đi chao đảo, run rẩy nhưng thoăn thoắt. Số khác chèo thuyền, đánh cá, làm ruộng, làm đường, đắp đê..., ngay cả khi mang thai, họ vẫn làm việc không ngơi nghỉ, dường như họ luôn cảm thấy hạnh phúc hoặc ít nhất là không hề ngạc nhiên trước những công việc vất vả đó.
Phần lớn các nhà thầu vận chuyển, thương nhân đều sử dụng người bản xứ. Qua đó có thể thấy khối lượng công việc mà người An Nam đảm nhiệm quả là khủng khiếp.
Phu xe kéo khiến người Âu phải kinh ngạc vì sức bền phi thường. Từ thành phố này sang thành phố khác, họ có thể kéo khách từ 20-40 km trong vài giờ, không biết mệt mỏi.

Một nữ phu xe Bắc Kỳ chở khách, nguồn: Robert Dubois
Tại các trạm bưu điện và điện báo, nhiều người vận hành máy móc rất thuần thục, có người đạp xe chuyển phát điện tín rất nhanh. Tại các nhà in, nhiều thợ rất thạo nghề. Tóm lại, dù bị buộc phải tuân thủ các yêu cầu khắt khe, người Bắc Kỳ vẫn nhanh chóng thích nghi, tiếp thu và làm việc hiệu quả.
Trẻ em cũng tham gia lao động, giúp đỡ gia đình hoặc làm thêm như chẻ sợi tre, lau chùi đồ khảm, mang vác đồ nặng, đôi khi còn nặng hơn cả số cân của mình. Các em thông minh, tinh nghịch, biết vài câu tiếng Pháp sẽ tìm cách làm việc cho người Âu như kéo quạt, đi chợ, lau dọn nhà cửa. Sau này, các em có thể trở thành đầu bếp, người hầu phòng hoặc người đánh xe ngựa tùy năng lực.

Trẻ em bản xứ, nguồn: Robert Dubois
Người hầu bản xứ rất dễ bỏ chủ nếu không hài lòng. Chỉ cần vài đồng trong túi, họ sẵn sàng bỏ đi mà không báo trước, không đòi trả lương, trở về nhà sống an nhàn với chút tiền dành dụm và chỉ quay lại làm việc khi tiền đã cạn. Họ có thể đi tìm việc khác hoặc quay lại với chủ cũ, tự nhận lỗi và thề không tái phạm. Tuy nhiên, những trường hợp này không xảy ra thường xuyên, và người Âu không bị thiệt hại nhiều vì cứ một người bỏ đi thì có đến mười người đến xin thay thế.

Những người thợ bản xứ đang phơi gạch, nguồn: Robert Dubois
Tóm lại, lao động bản xứ Bắc Kỳ là nguồn nhân lực vô cùng đáng quý, nhất là khi người Âu hầu như không trực tiếp tham gia lao động mà chỉ ra lệnh và bắt người khác phục tùng. Một công nhân người Pháp có thể làm bằng hai hoặc ba người An Nam, nhưng sẽ đòi mức lương cao hơn và không chịu được cảnh lao động liên tục. Vì vậy, cần tận dụng lao động bản xứ bởi họ có sức bền, chăm chỉ, chịu khó khi được đối xử công bằng.
-------------------------
Nguồn: Robert Dubois, Le Tonkin en 1900, Société française d’Éditions d’art, Paris, 1900, tr.84-90.
Hoàng Hằng