Tham dự phiên họp về Đông Dương ngày 08/5 gồm 9 đoàn: Anh, Mỹ, Pháp, Việt Nam, Campuchia, Lào, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Do cho rằng hội nghị sẽ thất bại nên trưởng đoàn đại biểu Mỹ - Ngoại trưởng Jules Dulle đã rời Genève và ủy quyền cho tướng Bedell Smith. Ngày 14/6, chính phủ của Thủ tướng Joseph Laniel sụp đổ, Mendès France trở thành tân Thủ tướng Pháp và muốn giải quyết cuộc xung đột một cách hoà bình, với thời hạn là trong một tháng phải đạt được ngừng bắn. Nếu ngày 20/7, thỏa thuận này không đạt được, ông sẽ từ chức[1]. Sau rất nhiều thương lượng, đặc biệt là về vấn đề quân sự, chính trị (thời hạn tiến hành bầu cử thống nhất hai miền) và đường phân tuyến vùng, đúng nửa đêm ngày 20 rạng sáng 21/7/1954, "canh bạc" mà Thủ tướng Pháp Pierre Mendès France đưa ra trước đó một tháng đã diễn ra, vài tiếng sau đó, các thỏa thuận giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được ký kết. Tuy nhiên, Mỹ và chính phủ Miền Nam Việt Nam đã không ký vào Hiệp định.
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu đại diện cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định Genève ngày 20/7/1954.

Tướng Henri Delteil đại diện cho chính phủ Pháp ký vào Hiệp định, nguồn: Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Nước Pháp đã không thể tìm thấy lối thoát danh dự cho cuộc chiến Đông Dương như mong đợi, nhưng chính phủ của Thủ tướng Pierre Mendès France đã được cứu vãn.
Lực lượng viễn chinh Pháp ở Đông Dương
Khởi đầu, lực lượng viễn chinh là lực lượng liên quân được chính thức thành lập tháng 10/1943, nhưng trên thực tế đến hè 1945 mới được triển khai cùng đồng minh chống lại Nhật Bản đồng thời tái lập ảnh hưởng đối với các thuộc địa của Pháp ở vùng Viễn Đông gồm Lào, Campuchia và Việt Nam. Khi lực lượng được đưa vào tác chiến, tình hình Đông Dương đã có những diễn tiến lớn: Nhật đảo chính Pháp, Nhật đầu hàng quân Đồng Minh và Cách mạng Tháng 8 của nhân dân Việt Nam thành công và bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh ngày 02/9/1945 buộc Pháp phải tái cơ cấu lại lực lượng này. Giữa tháng 10-12/1945, các đội quân châu Âu (Pháp và lính lê dương) đổ bộ ở Sài Gòn. Sau những thương lượng cùng Hiệp định sơ bộ giữa chính phủ Pháp và chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh[2], ngày 19/12/1946 - ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được giới quân sự Pháp cho là mở đầu cho cái gọi là cuộc chiến tranh Đông Dương.
Chiến thắng lẫy lừng của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ (từ ngày 13/3-07/5/1954) và tiếp theo là Hiệp định Genève về đình chiến và lập lại hòa bình ở Đông Dương đã đặt dấu chấm hết cho sự hiện diện của Pháp ở bán đảo Đông Dương.
Theo các điều khoản của Hiệp định, lệnh ngừng bắn có hiệu lực ở miền Bắc từ ngày 27/7, ở miền Trung: ngày 01/8, ở Lào: ngày 06/8, ở Campuchia: ngày 07/7 và miền Nam Việt Nam: ngày 11/8.
Lực lượng viễn chinh Pháp ở Viễn Đông có 300 ngày để rút khỏi khu vực phía bắc vĩ tuyến 17 trong đó có 80 ngày rút khỏi Hà Nội.
Trong công văn số 5027/MDL/TS ngày 20/8/1954, tướng Paul Ely[3] - Tổng chỉ huy quân Pháp kiêm Tổng ủy ở Đông Dương gửi Bộ trưởng phụ trách quan hệ với các nước thuộc liên hiệp Frédéric Dupont về kế hoạch tổ chức lại lực lượng viễn chinh Pháp (chủ yếu là Lục quân) ở Viễn Đông trong năm 1954-1955 theo các điều khoản của Hiệp định Genève. Theo đó, quân số Pháp cắt giảm dần dẫn tới ngân sách cũng bị cắt giảm.
Ở miền Bắc


Quân ta tiếp quản một số tòa nhà của quân Pháp ở Hà Nội, tháng 8/1954, nguồn: Phim Những đơn vị Việt Minh tiến vào Hà Nội 1954 (First Viet Minh Troops Arrive In Hanoi-1954) của hãng British Pathé
Ngày 01/8, Pháp rút quân khỏi khu vực Lục Nam và ngày 06/8, khỏi Hưng Yên, khu vực ven biển Móng Cái - Tiên Yên từ ngày 25/7-08/8. Ngày 09/8/1954, quân Pháp kết thúc di chuyển tập kết về vùng đóng quân tạm thời.
Ngày 11/8, tất cả các đơn vị Pháp và Việt Nam thân Pháp rút về khu vực bán kính 15km ở bắc, nam và tây Hà Nội, để trong vòng 80 ngày rút khỏi thành phố và khỏi Hải Phòng trong thời hạn 300 ngày. Chỉ huy Pháp có thời gian để hoàn thành nhiệm vụ đưa 120.000 quân nhân và thiết bị khỏi Bắc Kỳ.

Ngày 01/10/1954, tướng De Castries cùng Thủ hiến Bắc Kỳ, tướng Cogny, Robert Bordaz và Compain trước đài tưởng niệm các tử sĩ ở Kim Liên, Hà Nội. Nguồn: Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Từ ngày 07/10/1954, các đơn vị Pháp bắt đầu rút khỏi khu vực quanh Hà Nội. Hà Đông được chuyển giao cho quân đội nhân dân Việt Nam. Trong bức điện số 32435 đề ngày 09/10/1954 gửi Vụ phụ trách các nước thuộc liên hiệp, tướng Paul Ely cho biết việc rút khỏi Hà Nội đã diễn ra như theo kế hoạch, các đơn vị quân Pháp tập kết ở Gia Lâm bên tả ngạn sông Hồng, 349 người cùng 2.177 tấn thiết bị các loại đã được rút khỏi miền Bắc đưa vào miền Nam Việt Nam. Đúng 7 giờ ngày 09/10/1954, quân Pháp rút khỏi Hà Nội theo 5 khu vực khác nhau. Đến 17 giờ 30, quân Pháp chỉ còn một toán nhỏ ở lại Hà Nội và rút đi ngày hôm sau. Ngày 30/10/1954, số quân Pháp rút khỏi Hải Dương về đầu cầu Hải Phòng.

Ngày 24/4/1955, quân đoàn Vệ binh cộng hòa số 3 (LMGR) lên tàu rời Hòn Gai, nguồn Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Ngày 22/4/1955, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Hải Phòng và đến ngày 15/5/1955, đầu cầu cuối cùng của Pháp ở Bắc Kỳ chính là Đồ Sơn. Khoảng 12h30, tướng Cogny đi trực thăng đến Đồ Sơn để duyệt binh lần cuối các lực lượng Pháp và thân Pháp, sau đó số quân này lên tàu Jules Verne, thả neo trong vùng từ đầu giờ chiều cùng ngày.
Một phần các đơn vị Pháp rút khỏi Hải Phòng được hồi hương, số khác di chuyển vào miền Nam Việt Nam hoặc sang Bắc Phi, số còn lại tập kết ở "vùng 300 ngày" để chờ đợt rút đi chính thức.

Chương trình hoạt động của quân Pháp ngày 13/5/1955 ở Hải Phòng trước khi rút hoàn toàn khỏi miền Bắc Việt Nam, nguồn: hồ sơ 1 K 233, hộp số 42, lưu trữ cá nhân của tướng Ely, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Nhật lệnh số 4 ngày 15/5/1955, Tướng Paul Ely - Tổng chỉ huy kiêm Tổng ủy Pháp ở Đông Dương tuyên bố: "Người lính Pháp cuối cùng đã rời Bắc Việt Nam vào tối nay"[4].
Ở miền Trung
Báo cáo ngày 24/3/1955 gửi tướng Paul Ely, Tướng Lê Văn Tỵ - Tổng tham mưu trưởng quân đội quốc gia Việt Nam cho biết, quân Pháp đã chuyển giao một số vùng, trừ vùng A và vùng B cho quân đội quốc gia Việt Nam. Vùng A có ranh giới như sau: phía bắc là đường giới tuyến; phía nam: từ Cửa Việt cho đến sông Cam Lộ bao gồm cả cầu Đông Hà và doanh trại lính Pháp ở Đông Hà; phía đông là biển; phía tây là biên giới Việt - Lào (từ đường giới tuyến tới Đông Sa Mũi), giới tuyến phân vùng vẫn thuộc quyền giám sát và kiểm soát của quân Pháp. Vùng B là vùng Đà Nẵng có ranh giới như sau: phía nam: Gia Các, Quá Giáng, Lệ Sơn - hạ lưu sông Yến tới khu vực hợp lưu với sông Cẩm Lệ, thượng lưu sông Túy Loan tới An Lợi trên đường đi Bà Nà; phía bắc: cầu Lăng Cô; phía tây: đường phân thủy nối Bà Nà với phá An Cự đi qua đèo Mũi Trâu và Hói Mít).
Quân Pháp được lệnh rút khỏi khu vực Đồng Hới trước ngày 16/8/1955, tạm thời rút khỏi đầu cầu Quy Nhơn trước ngày 16/8. Theo kế hoạch, quân Pháp bắt đầu bàn giao cho quân đội quốc gia Việt Nam từ ngày 25/3 và kết thúc ngày 10/4/1955.
Trong bức điện gửi tướng Jacquot ngày 03/6/1955[5], tướng Ely cho biết nhiệm vụ của quân đội viễn chinh Pháp ở Trung Kỳ vào thời điểm đó gồm: 1) đảm bảo bảo vệ gián tiếp, trong điều kiện cho phép, các lợi ích và công dân Pháp đồng thời tiếp nhận công dân Pháp hoặc người Việt Nam cần được bảo vệ: 2) tiếp tục hỗ trợ quân đội các nước thuộc Liên hiệp Pháp theo các thỏa thuận đã ký hoặc cần thảo luận với chính phủ các nước này.
Ở miền Nam
Sau khi Hiệp định Genève được ký và lệnh ngừng bắn chính thức có hiệu lực ở miền Nam Việt Nam, các đơn vị lớn của Pháp được lệnh tập kết tại khu vực Sài Gòn, trong vùng bao quanh bởi Biên Hòa, Bà Rịa và Vũng Tàu. Tuy nhiên, Pháp vẫn nuôi ý định duy trì ảnh hưởng đối với chính quyền của Ngô Đình Diệm.
Tinh đến quý 01/1955, quân Pháp ở miền Nam Việt Nam là 75.000 người với danh nghĩa hỗ trợ nhân đạo, quân sự và đến ngày 01/6/1955, còn 60.000 người. Ngày 22/02/1955, lãnh đạo các đạo Cao Đài, Hòa Hảo, phe phái chính trị đã từ chối đề nghị hợp nhất do chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra. Cuối tháng 3/1955, bạo lực và xung đột giữa các đạo phái và quân đội Việt Nam bùng phát ở miền Nam. Đến cuối tháng 4/1955, Tổng thống Diệm, với sự hậu thuẫn từ các cố vấn Mỹ, đã phát động chiến dịch chống Pháp, cáo buộc Pháp ủng hộ các đạo, phe phái đối lập, vốn được xem như một mũi tên trúng ba đích: lật đổ Bảo Đại, yêu cầu Pháp rút quân viễn chinh khỏi Việt Nam và tổ chức bầu cử Quốc hội của miền Nam Việt Nam. Trong khi đó, quan hệ giữa tướng Ely và phụ tá là tướng Raoul Salan trở nên căng thẳng. Tướng Ely tuân thủ các chỉ thị từ Paris ủng hộ chính quyền của Ngô Đình Diệm, trong khi phụ tá là tướng Salan bị cáo buộc "đi đêm" với thủ lĩnh các đạo phái. Ngày 02/6/1955, Tổng chỉ huy kiêm Tổng ủy Đông Dương tướng Paul Ely rời Sài Gòn, thay ông ta là Henri Hoppenot - được bổ nhiệm với chức danh đại sứ. Tuy nhiên, vai trò của Pháp ở Viễn Đông trên thực tế đã kết thúc. Vào thời điểm đó, chính phủ Pháp đang đau đầu đối phó với các cuộc nổi dậy kháng chiến chống Pháp của nhân dân An-giê-ri hơn là các vấn đề Đông Dương trong khi ảnh hưởng cả về chính trị, quân sự lẫn văn hóa của Mỹ ngày càng gia tăng ở miền Nam Việt Nam.
Năm 1955 đặt dấu chấm hết cho những ảo tưởng của Pháp ở Việt Nam. Cuối năm đó, quá trình chuyển giao cho chính quyền Ngô Đình Diệm được tiến hành, chính phủ Diệm tuyên bố rút khỏi Liên hiệp Pháp, và chính phủ Pháp quyết định rút quân hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam. Ngày 26/01/1956, chính quyền Việt Nam (của Ngô Đình Diệm) bày tỏ mong muốn Pháp rút quân trong thời hạn sớm nhất.
Tháng 01/1956, Ngô Đình Diệm chính thức thể hiện thái độ chống Pháp rõ rệt, yêu cầu Pháp rút khỏi Việt Nam và chính phủ Pháp quyết định giải quyết dứt điểm vấn đề Đông Dương. Pháp có 6 tháng để hồi hương những đơn vị cuối cùng (hạn chót là cuối tháng 6/1956), tức là khoảng 30.000 quân cộng thêm khoảng 5.000 lính người bản xứ. Đến tháng 4/1956, trung bình mỗi tháng khoảng 7.000 quân Pháp được hồi hương hoặc chuyển sang chiến trường Bắc Phi bằng cả đường không và đường biển, riêng tàu Pasteur vận chuyển tới 1/3 tổng quân số rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Ngày 10/4/1956, tướng Jacquot - chỉ huy cuối cùng của lực lượng viễn chinh Pháp ở Viễn Đông duyệt đội danh dự Pháp lần cuối trước khi lực lượng này rút quân vĩnh viễn khỏi Đông Dương. Đến tối ngày 11/4, đài phát thanh Chim én (Hirondelle) của lực lượng vũ trang Pháp ở Viễn Đông phát đi bản tin cuối cùng trước khi dừng hẳn.

Diễu binh lần cuối của các đơn vị Pháp ở Sài Gòn ngày 10/4/1956, trước thời điểm rút quân vào cuối tháng 4/1956, nguồn: Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp

Diễu binh lần cuối của các đơn vị Pháp ở Sài Gòn ngày 10/4/1956, trước thời điểm rút quân vào cuối tháng 4/1956, nguồn: Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Đến cuối tháng 4/1956, chỉ còn 3.000 quân sĩ Pháp ở miền Nam Việt Nam để giải quyết các vấn đề hành chính và tài chính còn tồn đọng của lực lượng viễn chinh. Sự hiện diện quân sự của Pháp chỉ còn ở quân đồn trú tại căn cứ không - lục quân Seno (Lào)[6].
Ngày 26/4/1956, lực lượng Hải quân Viễn Đông chính thức bị giải thể, ngày 28/4/1956[7], lực lượng viễn chinh Pháp ở Viễn Đông chính thức bị xóa sổ và chức Chỉ huy cấp cao Liên hiệp Pháp ở Đông Dương cũng bị bãi bỏ.
[1] Theo "Lịch sử chiến tranh Đông Dương" (Histoire de la guerre d’Indochine), tướng Yves Gras, nhà xuất bản Denoёl, 1992, trang 575.
[2] . Tham khảo bài viết về hiệp định này tại https://www.archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/cuoc-hanh-binh-bentre-voi-hiep-dinh-so-bo-ngay-06-3-1946.htm.
[3]. Ngày 03/6/1954, tướng Paul Ely được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy lực lượng quân Pháp kiêm Tổng ủy Pháp ở Đông Dương, thay tướng Henri Navarre bị triệu hồi về Pháp sau thất bại Điện Biên Phủ. Cùng ngày, Frédéric Dupont được bổ nhiệm làm Bộ trưởng phụ trách các nước thuộc Liên hiệp, thay Marc Jacquet từ chức ngày 31/5/19541.
[4] . Theo "Hải quân Pháp ở Đông Dương, 1939-1956, tập 5 tháng 4/1953-5/1956" trang 48, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Hải Phòng ngày 22/4 và kết thúc hoàn toàn ngày 18/5, thành phố Hải Phòng được bàn giao cho quân đội nhân dân Việt Nam tiếp quản ngày 13/5/1955.
[5] . Hộp 44, hồ sơ 1K 233, tài liệu lưu trữ cá nhân của tướng Paul Ely, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp.
[6]. Đến năm 1963 số quân này rút hoàn toàn khỏi đây.
[7] . Theo "Những bài học từ cuộc chiến tranh Đông Dương 1945-1954", Báo cáo của tướng Paul Ely, tập 1, 2011, trang 446.
Ngọc Nhàn