11:22 AM 09/02/2024  | 

Dưới các triều đại quân chủ, thơ văn từng có vị trí đặc biệt trong đời sống cung đình. Khi đó, vua tôi thường cùng nhau xướng họa. Với những giá trị nổi bật, sinh hoạt văn chương cung đình triều Nguyễn đã góp thêm hương sắc cho lịch sử văn học nước nhà.

Vua Minh Mạng ngự ở điện Cần Chánh. Trăm quan vào sân, lạy chầu. Trước đây, mưa dầm hàng tuần, vua lánh rét ở hiên đông điện Trung Hòa, đến đây chiều trời tạnh nắng, mới ngự coi chầu. Vua nhân làm bài thơ “Xuân sắc mãn hoàng đô” (Sắc xuân tràn ngập Kinh đô), sai các quan đình thần ai là khoa mục thì ở lại Duyệt thị đường, mỗi người làm một bài để dâng lên.[1]

Châu bản triều Nguyễn cho biết tháng 2 năm năm Minh Mạng 21 (1840), công việc thảnh thơi, hoàng đế dẫn hoàng tử và các quan đại thần đi chơi hồ Tịnh Tâm. Hoàng đế có làm bài thơ ghi lại việc đó, xong truyền cho chép bài thơ ấy để ban cấp. Những người đi theo hôm đó đều được một tờ để ghi nhớ.[2]

Hoàng đế Thiệu Trị cũng vậy, phàm những nơi đi qua, lúc nghỉ ngơi thăm thú phong cảnh, thăm hỏi việc nông tang, xem xét đời sống nhân dân, hoàng đế đều làm thơ để ghi lại sự việc và cảm xúc cá nhân về vùng đất ấy. Thơ ngự chế trong chuyến tuần du miền Bắc vào mùa xuân năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) gồm 173 bài, trong đó có vịnh sông Vĩnh Định, sông Ái Tử, sông Linh Giang… để tưởng nhớ công lao oanh liệt buổi đầu mở mang cơ nghiệp[3]. Nội các xin đem 18 bài khắc vào bia đá. Hoàng đế Thiệu Trị cho rằng, thơ sơ thảo lần đầu, e rằng chưa xứng để lại cho đời sau. Nay đã có lời xin, thì truyền giao cho các đại thần xem lại rồi tâu trình lên. Về việc này, các quan Vũ Xuân Cẩn, Trương Đăng Quế… có tâu xin cho thi hành việc khắc để mọi người cùng biết. Việc thực hiện do Bộ Công xem xét, quy định khuôn mẫu, giao quan địa phương làm theo. Hoàng đế y cho và phê trên văn bản: “Được”.[4]

Hoàng đế Thiệu Trị yêu chuộng văn thơ và để lại nhiều bài thơ nổi tiếng. Độc đáo nhất có lẽ là bài thơ chữ Hán có tên “Vũ trung sơn thủy”. Bài thơ được xếp theo hình bát quái với kỹ xảo hồi văn liên hoàn, chỉ có 56 chữ nhưng có đến 64 bài thất ngôn bát cú với 128 cách đọc khác nhau. Châu bản triều Nguyễn cũng ghi lại việc Nội các vâng châu phê xét xem bài thơ ngự chế “Vũ trung sơn thủy” có hợp vận không. Các quan cho biết đã đọc đi đọc lại nhiều lần, thấy câu trên câu dưới dùng hai vần bằng, trắc và thuận đọc thành bài thơ, lại kiêm thể hồi văn. Cảnh vật sau mưa hợp với lòng người. Âm vận thể tài tuyệt diệu.[5]

Các bài thơ do hoàng đế làm có khi được giao cho các quan kiểm tra soát xét lại. Bài thơ Hoàng đế Tự Đức làm đề vào chiếc quạt tặng quan Đề đốc nước Thanh là Phùng Tử Tài vào năm Tự Đức 23 (1870) cũng được giao cho đình thần ban Văn xem lại cẩn thận, xem có vấn đề gì quan ngại không thì lập tức phúc trình đợi phê chuẩn trước khi gửi đi.[6]

Bài thơ Hoàng đế ban tặng có khi là lời giáo huấn gây cảm xúc bồi hồi cảm động cho người nhận, như bày tỏ của Lãnh Tuần phủ Bình Trị Trần Hi Tăng: Thần vái lãnh lòng cảm động bồi hồi, kính đọc lời giáo huấn, lòng vui khôn xiết. Thần vô cùng cảm kích, xin tạ ơn với tấm lòng thành.[7]

 


[1] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục.

[2] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Minh Mạng, tập 76, tờ 33.

[3] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Thiệu Trị, tập 21, tờ 93.

[4] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Thiệu Trị, tập 19, tờ 51.

[5] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Thiệu Trị, tập 32, tờ 114.

[6] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 222, tờ 113.

[7] Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 260, tờ 151.

Hồng Nhung