Toàn cảnh cảng Sài Gòn, nguồn: TTLTQGI
Một phần cảng Sài Gòn năm 1868, nguồn: Ngân hàng Tín dụng Nông nghiệp Pháp
Vị trí - Cảng Sài Gòn nằm dọc theo con sông cùng tên, một chi lưu của sông Đồng Nai, cách biển 43 dặm.
Thủy văn - Thông thường, trong vòng 24 giờ, tại đây có hai đợt thủy triều. Mực nước tối đa khi triều cường là 3,60m.
Trang thiết bị - Vào thập niên 20, cảng Sài Gòn có một bờ kè xây bằng gạch và xi măng dài 1km ở phía hạ nguồn so với các cầu tàu của Công ty Vận tải đường biển. Ngoài ra, tàu bè cập bến để lấy gạo - có thuyền nhỏ chở gạo ra tàu - còn được bố trí 14 phao neo đậu trên sông và 21 cọc buộc thuyền dựng dọc theo dòng sông ở phía hạ nguồn thành phố.
Cảng Sài Gòn năm 1911, nguồn: Lưu trữ quốc gia Pháp
Tổ chức hành chính - Ngày 02/01/1914, thương cảng Sài Gòn chính thức trở thành công sở tự quản, có tư cách pháp nhân và do một Hội đồng quản trị điều hành. Hội đồng này do Thống đốc bổ nhiệm và lựa chọn trong số đại diện của chính quyền, các nhà kỹ nghệ, chủ tàu, thương nhân, nông gia với các quyền hạn như: quản lý tàu bè, hàng hoá, trang thiết bị cho đến nhân sự; quyết định các vấn đề liên quan đến bảo trì, nâng cấp, mở rộng cảng; tổ chức cứu hộ; lắp đặt hệ thống chiếu sáng.v.v…
Chương trình kiến thiết - Vào những năm 1920, Hội đồng quản trị đã xây dựng một chương trình kiến thiết quy mô lớn. Chương trình được thực hiện bằng nguồn kinh phí thường xuyên dựa trên khoản vay 2.000.000 đồng bạc mà Hội đồng quản trị được phép chi dùng.
Các dự án chủ đạo gồm có: mở rộng bờ kè, quy hoạch các bờ kè sẵn có và các bờ kè hoặc bến tàu sắp xây dựng bằng cách làm đường ray dẫn ra bến, dựng kho bảo quản và tổng kho, xây cất kho bãi chứa hàng, chứa than với các loại máy móc bốc dỡ hiện đại, dựng cẩu quay để bốc dỡ hàng hóa cũng như chuyển hàng vào kho.
Nhà kho của cảng Sài Gòn năm 1913, nguồn: Lưu trữ quốc gia Pháp
Thời điểm đó, cảng Sài Gòn cũng dự kiến mở dịch vụ sà lan phục vụ vận chuyển gạo giữa Chợ Lớn và Sài Gòn.
Cảnh sát - Bến cảng có đội cảnh sát đặc biệt do Thống đốc Nam Kỳ bố trí để đảm bảo an ninh trên bộ cũng như các khúc sông thuộc bến cảng.
Ngân sách - Ngân sách trung bình của cảng đạt trên 1.000.000 đồng bạc, được cân đối đồng đều giữa thu và chi.
Thống kê - Hàng năm, khoảng 800 tàu bè, chưa kể tàu thuyền cận duyên thường xuyên ra vào cảng với trọng tải lên tới 1.600.000 tấn. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu qua cảng năm 1922 là 208.000.000 đồng bạc đối với tàu chạy đường dài và 48.000.000 đồng bạc đối với tàu cận duyên.
Sản phẩm xuất khẩu chính qua cảng Sài Gòn là lúa gạo với kim ngạch tăng đều hàng năm, kể cả những năm mất mùa. Kim ngạch lớn nhất vào năm 1921 với 1.517.000 tấn gạo xuất khẩu.
Các sản phẩm khác xuất khẩu qua cảng Sài Gòn gồm có tiêu, bông, cao su, khô dừa, cá mặn, dầu và dầu thực vật, cá... Mọi nông sản của Nam Kỳ đều trên đà tăng trưởng hàng năm và hàng hóa lưu thông qua cảng Sài Gòn cũng ngày một tăng qua các năm[1].
Từ 1924, cảng Sài Gòn trở thành cảng thứ 8 của Pháp và số tàu biển ra vào cảng chỉ đạt tổng trọng tải 3.352.676 tấn. Tuy nhiên, thêm vào đó là các tàu sông với trọng tải 209.834 tấn; thuyền bè Trung Hoa và thuyền mành: 145.519 tấn; các loại ghe và thuyền tam bản: 1.525.745 tấn. Với tổng tải trọng đạt 5.233.874 tấn, cảng Sài Gòn đã nhích lên vị trí thứ 7 trong số các cảng của Pháp, sau Marseille, Cherbourg, Havre, Dunkerque, Rouen và Bordeaux[2].
Không chỉ là điểm xuất khẩu gạo chính của khu vực Nam Kỳ, cảng Sài Gòn còn là cảng chuyên xuất khẩu các loại hàng hóa nói chung. Đây cũng được coi là một trong những cảng hành khách lớn nhất Đông Dương, do vậy, số người Âu tại Nam Kỳ nhiều hơn ở những xứ khác trong Liên bang. Mặt khác, do có nhiều tuyến hàng hải xuất phát từ Sài Gòn, hành khách có thể dễ dàng đến Singapore, Bangkok hay Batavia hơn. Vào mùa khô, một số tàu ngoại quốc chở khách du lịch người Âu hoặc Mỹ có nhu cầu thăm quan Angkor cũng đều xuống cảng này.
Nguồn:
- TTLTQGI, phông CIY, hs 3534, ”Les ports autonomes de l’Indochine” (Các cảng tự quản của Đông Dương) năm 1931
- Xứ Nam Kỳ của Marcel Bernanose xuất bản năm 1925
- Cảng Sài Gòn của J. de Pommeraye đăng trên Tuần báo Kinh tế và Tài chính, 1925
Hoàng Hằng - Nguyễn Hồng