Trước ngày Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp quản thủ đô (10/10/1954), một số tòa nhà hành chính và quân sự đã được phía Pháp chuyển giao. Tuy nhiên, để đảm bảo việc đi lại của Ủy ban quốc tế giám sát việc thực thi hiệp định, sau khi tiếp quản sân bay, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đồng ý để quân Pháp duy trì một số quân nhân thuộc lực lượng Không quân tại sân bay Gia Lâm đến hết ngày 31/12/1954[1].
Sân bay Gia Lâm trong chiến tranh Đông Dương
Cùng với sân bay Phủ Lạng Thương và Tông, sân bay Gia Lâm được xây dựng năm 1936[2] là một trong ba sân bay được quân Pháp nhượng lại cho quân Nhật theo thỏa thuận ký ngày 22/09/1940 và là mục tiêu ném bom dữ dội của quân Mỹ trong Thế Chiến thứ hai. Đây cũng là nơi diễn ra các trận đánh ác liệt của quân ta với quân Pháp vào cuối tháng 12/1946 khi Toàn quốc kháng chiến bắt đầu, bởi đây là nơi tập kết phương tiện tiếp tế và sơ tán thương binh duy nhất của quân Pháp khi đường bộ và đường thủy đã bị cắt đứt.
Sơ thảo dự án xây dựng ga hàng không tại sân bay Gia Lâm, nguồn: hộp 651, phông Kiến trúc, TTLTQG I
Trong chiến tranh Đông Dương, sân bay - căn cứ không quân Gia Lâm (căn cứ số 197 theo tài liệu quân sự Pháp) là nơi đóng quân của các phi đội tiêm kích và ném bom (GC 1/7 Provence, GC II/4 Lafayette, GC I/3 Navarre). Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, sân bay này đóng vai trò số 1 trong việc tiếp tế và yểm trợ cho quân đồn trú ở Điện Biên Phủ, cùng với sân bay Cát Bi và Đồ Sơn. Đầu tháng 3/1954, bộ đội đặc công của quân ta đã tấn công sân bay này, phá hủy nhiều máy bay, làm suy yếu tiềm lực không quân của Pháp, góp phần chia lửa cho chiến trường Điện Biên Phủ.
Sân bay Gia Lâm trước và trong ngày tiếp quản thủ đô 10/10/1954
Trong báo cáo đề ngày 13/10/1954[3], đại úy Joseph Negri - chỉ huy phân đội phụ trách nhiệm vụ chuyển giao các sân bay và tòa nhà quân sự của Không quân Pháp cho biết ngày 09/10, các tòa nhà quân sự của Pháp tại trung tâm thành phố Hà Nội ở số 34, 89, và những tòa nhà của Ban tham mưu Không quân chiến thuật Bắc Việt Nam (GATAC Nord) tại số 8, 8 bis và số 10 phố Maréchal Joffre[4], đã được chuyển giao với sự tham gia của một ủy ban hỗn hợp gồm các sĩ quan Pháp và cán bộ Việt Minh. Căn cứ không quân Gia Lâm, trong đó có sân bay Gia Lâm, cũng được bàn giao cùng ngày. Ban đầu phía Pháp từ chối bàn giao sơ đồ bố trí hệ thống cấp, thoát nước, điện song sau nhiều giờ bàn thảo, Pháp đồng ý cung cấp những sơ đồ này và tương tự như căn cứ không quân Bạch Mai, biên bản bàn giao ghi rõ không có mìn gài ở khu vực quanh căn cứ này[5].

Sân bay Bạch Mai năm 1954 chụp từ tháp kiểm soát không lưu với các máy bay Grumman F8F Bearcat của phi đội EROM 80, nguồn: sách "Nhìn lại Không quân Pháp trong chiến tranh Đông Dương"

Sân bay Gia Lâm ngày 27/8/1954, nguồn: sách "Nhìn lại Không quân Pháp trong chiến tranh Đông Dương"
Về nguyên tắc, sân bay Gia Lâm đóng cửa ngày 10/10/1954[6] khi hết thời hạn 80 ngày để quân Pháp rút hoàn toàn khỏi Hà Nội theo Hiệp định Genève. Tuy nhiên, ngày 16/8/1954, tướng Jouhaud - Chỉ huy trưởng Không quân Pháp ở Viễn Đông đã trình bản nghiên cứu mật số 1006/AIR/EO/CH-OPS/S[7] lên tướng Paul Ely - Tổng chỉ huy kiêm Tổng ủy Pháp tại Đông Dương về việc duy trì mở cửa sân bay Gia Lâm để phục vụ giao thông đường không sau thời hạn 80 ngày. Ngày 01/9/1954, trong công văn gửi đại tá Hà Văn Lâu - Trưởng ban liên lạc của Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban giám sát quốc tế về Hiệp định Genève, tướng Jouhaud đề cập đến đề nghị ngày 30/8 của Tổng thư ký Ủy ban giám sát quốc tế, yêu cầu Pháp thương lượng với chính phủ VNDCCH nhằm đạt được thỏa thuận duy trì một sân bay cùng hạ tầng hàng không ở Hà Nội. Chính phủ Pháp hy vọng hai bên sẽ sớm tiến hành thảo luận về vấn đề này.

Công văn của tướng Jouhaud gửi đại tá Hà Văn Lâu về việc duy trì một sân bay và hạ tầng hàng không sau ngày 10/10/1954, nguồn: hồ sơ 4C 684, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Trong điện khẩn mật số 110/AIR.BO/CAB/S đề ngày 28/9 gửi tướng Ely, tướng Jouhaud cho biết việc duy trì nhân sự quân sự và dân sự của Pháp tại sân bay Gia Lâm trong thời hạn 300 ngày là cần thiết nhằm đảm bảo an toàn cho các Ủy ban giám sát hỗn hợp đồng thời hỗ trợ quân Pháp trong quá trình rút quân. Tuy nhiên, viên tướng này cũng cho rằng, nếu thỏa thuận với chính quyền Việt Minh không đạt được trước ngày 01/10, quân Pháp sẽ nhận lệnh tháo dỡ toàn bộ thiết bị quân sự, riêng thiết bị dân sự sẽ chờ hướng dẫn và chỉ thị từ Vụ Hàng không dân dụng Pháp. Quân Pháp không tháo dỡ những thiết bị dân sự cần được giữ nguyên theo Hiệp định Genève, và chỉ tháo dỡ những thiết bị dân sự được phép cùng với các thiết bị quân sự. Viên tướng này cũng nêu rõ chiến dịch tháo dỡ thiết bị phải được tiến hành kín đáo và thận trọng. Đầu tháng 10, lính công binh thuộc Tiểu đoàn Công binh số 31 của Pháp đã tiến hành tháo dỡ các tấm ván PSP của sân bay cùng những lán kim loại trong căn cứ quân sự để chuyển về Pháp.
Hoạt động của sân bay Gia Lâm sau ngày tiếp quản
Sau nhiều cuộc trao đổi và thương lượng, ngày 05/10/1954, một nghị định thư đã được ký giữa đại tá Hà Văn Lâu và chuẩn tướng De Beaufort - Trưởng ban liên lạc Pháp bên cạnh Ủy ban giám sát quốc tế.

Trang đầu của Nghị định thư về hoạt động của sân bay Gia Lâm từ ngày 11/10 đến ngày 31/12/1954, nguồn: hồ sơ 4C 684, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Theo nghị định thư, nhân sự Pháp được duy trì tại sân bay Gia Lâm đến hết ngày 31/12/1954 gồm các kỹ thuật viên dân sự và quân sự. Các kỹ thuật viên quân sự chỉ mặc quân phục khi làm nhiệm vụ và mặc thường phục khi rời nơi làm việc. Lực lượng này có tên gọi là Phân đội kỹ thuật độc lập, đặt dưới quyền của Trưởng ban liên lạc Pháp bên cạnh Ủy ban giám sát quốc tế. Phía Việt Minh cam kết đảm bảo an toàn và tự do theo các nguyên tắc quy định cho nhân sự và thiết bị kỹ thuật duy trì hoạt động của sân bay sau ngày tiếp quản thủ đô 10/10. Nhân sự kỹ thuật của Pháp cam kết không tham gia vào các vấn đề chính trị - hành chính, cũng như không cản trở thực thi pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Trong thời gian từ ngày 11/10 đến ngày 31/12/1954, việc tháo dỡ các thiết bị quân sự còn lại phải đảm bảo không ảnh hưởng đến hoạt động không lưu. Trong trường hợp cần thiết, các thiết bị này có thể được vận chuyển bằng đường bộ về Hải Phòng và gửi thông báo trước 24 giờ đến chính quyền Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Cũng trong thời gian này, nếu máy móc và thiết bị bay của Pháp bị thiệt hại khi hạ - cất cánh ở Gia Lâm hoặc nơi khác, Phái bộ liên lạc của Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban giám sát quốc tế sẽ được thông báo sớm nhất có thể để hoàn tất các thủ tục hành chính trước 24 giờ và cho phép nhận linh kiện thay thế cần thiết cho việc sửa chữa.
Các loại máy bay sau được phép hạ cánh tại sân bay Gia Lâm cả ngày lẫn đêm, nhưng phải có thông báo trước:
- Máy bay vận tải và liên lạc của các nước thành viên Ủy ban giám sát quốc tế phục vụ hoạt động của Ủy ban;
- Máy bay vận tải và liên lạc của Pháp, với phi hành đoàn là người Pháp, phục vụ cho Ủy ban quốc tế và Phái bộ liên lạc Pháp bên cạnh Ủy ban giám sát quốc tế tại Hà Nội (thường là các máy bay Dakota, Beaver, trực thăng, đôi khi có thêm Curtis C-46, Nord 1.000, L-19);
- Máy bay vận tải tiếp tế, các đội sửa chữa, bảo dưỡng máy bay và lắp đặt kỹ thuật được quy định trong thỏa thuận, cũng như các đội thanh tra Phân đội kỹ thuật Pháp;
- Các cấp có thẩm quyền của hai bên tiếp tục thương lượng về việc mở rộng sử dụng sân bay Gia Lâm. Các máy bay của Ủy ban quốc tế và Phái bộ liên lạc Pháp bên cạnh Ủy ban giám sát quốc tế được phép đậu bán thường trực tại sân bay.
Về hoạt động của sân bay, Chính phủ VNDCCH đảm bảo quyền và nghĩa vụ duy trì và vận hành sân bay đối với các bộ phận an ninh hàng không, liên lạc điện đài, điện tín giữa các trạm không lưu và khí tượng của Hà Nội, Hải Phòng. Các đơn vị chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như các kỹ thuật viên của Chính phủ VNDCCH, không can dự vào việc vận hành và khai thác các thiết bị kỹ thuật. Xăng và phụ gia nhiên liệu khác phục vụ hoạt động của sân bay được tiếp tế bằng đường sắt hoặc bằng đường bộ 2 lần/tuần giữa Gia Lâm - Hải Phòng, bằng các đoàn xe được quân đội VNDCCH hộ tống trong khu vực kiểm soát, đồng thời cùng với hàng tiếp tế cho Phái bộ liên lạc Pháp. Nhân sự tham gia hộ tống các đoàn xe tiếp tế nhiên liệu được Chính phủ VNDCCH cấp giấy thông hành để đi qua các trạm kiểm soát.
Quân đội nhân dân Việt Nam cung cấp nhân sự đặt dưới quyền chỉ huy của Phân đội kỹ thuật Pháp tại sân bay Gia Lâm, gồm phụ bếp, nhân viên phục vụ, gác chắn, lao công, chuyển phát thư. Phái bộ liên lạc Pháp bên cạnh Ủy ban quốc tế có trách nhiệm trả lương cho các phụ bếp và nhân viên phục vụ, còn nhân viên gác chắn, lao công và chuyển phát thư sẽ do chính quyền địa phương chi trả. Ngoài ra, các kỹ thuật viên người Pháp được Quân đội nhân dân Việt Nam hỗ trợ nhân công và thiết bị công binh cần thiết cho việc bảo dưỡng, bảo trì đường băng, các tòa nhà và chi phí bảo dưỡng do chính quyền địa phương chịu trách nhiệm. An ninh bên trong và bên ngoài sân bay do một đơn vị của Quân đội nhân dân Việt Nam đảm nhiệm.
Phân đội trưởng Phân đội kỹ thuật Pháp chịu trách nhiệm an toàn và điều phối lưu không trong khu vực hình trụ có bán kính là 10 dặm hàng không, với tâm là sân bay và ở độ cao 2.000m. Nếu các điều kiện khí quyển hoặc kỹ thuật không cho phép, Phân đội trưởng có quyền ra lệnh đóng sân bay, sử dụng đường băng và thông báo kịp thời cho chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam tại sân bay.
Các chuyến bay Hải Phòng - Gia Lâm - Hải Phòng chỉ được thực hiện trong hành lang hàng không quy định tại Quyết định số 8 của Ủy ban giám sát hỗn hợp ngày 18/8/1954. Cấm bay trên thành phố Hà Nội cũng như các khu vực thành thị. Tuy nhiên, do vị trí của sân bay gần với thành phố Hà Nội và chỉ trong điều kiện hạ cánh bằng đường băng lệch cực Bắc từ 200 (Q.F.U 020), các máy bay hạng nặng có thể được dẫn đến khu vực đường băng vượt ra ngoài giới hạn Đông Nam của thành phố.
Từ ngày 18/12/1954 đến ngày 04/01/1955[8], chính quyền VNDCCH tiếp quản hoàn toàn hạ tầng và hoạt động của sân bay Gia Lâm, đảm bảo toàn bộ nhân sự còn lại và thiết bị quân sự của Pháp rút an toàn về Hải Phòng bằng đường không và đường bộ trong khi các thiết bị dân sự được giữ nguyên tại chỗ.
[1]. Báo cáo mật số 46/AIR.EO/SAG/S ngày 24/9/1954 của đại tá Tramond - Trưởng Ban Tham mưu Bộ chỉ huy Không quân Pháp ở Viễn Đông, nguồn: hồ sơ 4 C 684, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp.
[2]. Theo "Từ điển chiến tranh Đông Dương", Ivan Cadeau, 2021, trang 238.
[3]. Hồ sơ 4 C 686, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp.
[4] . Nay là phố Lý Nam Đế.
[5]. Tham khảo thêm bài viết về tiếp quản thủ đô ngày 10/10/1954 tại https://www.archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/tiep-quan-thu-do-qua-tai-lieu-luu-tru-bo-quoc-phong-phap.htm
[6]. Ngày 11/10/1955, khi trình bày với Bộ trưởng phụ trách quan hệ với các nước thuộc Liên hiệp Guy La Chambre, Tham mưu trưởng Không quân Pháp ở Viễn Đông cho biết, tính đến ngày 07/10/1954, các đơn vị của Không quân Pháp ở miền Bắc Việt Nam đã rút về Hải Phòng, nguồn: hồ sơ: 4 C669, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp.
[7]. Hồ sơ: 4C 912, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp.
[8]. Báo cáo số 52/111 ngày 08/01/1955 của thiếu tá Fiamma Maurice - Phân đội trưởng Phân đội kỹ thuật Không quân ở sân bay Gia Lâm gửi Binh đoàn trưởng Binh đoàn không quân tác chiến Bắc Việt Nam, nguồn: hồ sơ 4 C 486, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp.
Ngọc Nhàn