Bìa hồ sơ bản báo cáo của tướng Henri Navarre về việc chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, nguồn: hồ sơ 1 K 342, hộp số 3, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Diễn tiến của chiến dịch 56 ngày đêm qua báo cáo của tướng Navarre[1]
Lòng chảo Điện Biên Phủ, nguồn: hồ sơ 1 K 342, hộp số 1, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Tướng Henri Navarre trình bày về chiến dịch Điện Biên Phủ theo 4 giai đoạn.
10 Giai đoạn 1 (từ ngày 13-15/3/1954). Các trung tâm đề kháng phía bắc bị tấn công, thu hẹp và cô lập. Sau khi cho pháo binh bắn phá dữ dội tập đoàn cứ điểm, đặc biệt vào các vị trí pháo binh của Pháp, quân Việt Minh tấn công cứ điểm Độc Lập (Gabrielle) và Him Lam (Béatrice). Cứ điểm Him Lam (do tiểu đoàn 3 thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13 chiếm đóng) thất thủ đêm 13 rạng ngày 14/3. Cứ điểm Độc Lập do tiểu đoàn 5, trung đoàn lính An-giê-ri số 7 chiếm đóng cầm cự được trước hai đợt tấn công liên tiếp trong đêm 13 rạng sáng ngày 14 và thất thủ trong đêm 14 rạng sáng ngày 15/3. Pháp tiến hành phản công vào sáng ngày 15/3 nhằm rút số quân còn sót lại của Độc Lập ở điểm yểm trợ phía nam. Pháp và đồng minh hứng chịu tổn thất như sau: 1.500 quân bị loại khỏi chiến đấu.
20 Giai đoạn 2 (từ ngày 16/3-30/3/954). Quân Pháp tập trung tổ chức lại và chi viện. Do những lộn xộn trong tiểu đoàn lính Thái cùng việc tiểu đoàn lính Thái số 3 tháo chạy khỏi chốt yểm trợ phía bắc trung tâm đề kháng Bản Kéo (Anne - Marie) ngày 18/3, mạn tây bắc của Khu trung tâm chịu tổn thất: trung tâm đề kháng Bản Kéo bị xóa sổ và 2 chốt yểm trợ phía nam buộc phải rút về trung tâm đề kháng Huguette. Bố trí phòng thủ được thay đổi để lập phòng tuyến áp sát liên tục trên ngoại vi và ngăn Việt Minh xâm nhập vào sân bay. Được Lục quân Bắc Việt Nam đồng ý, hai tiểu đoàn lính dù (tiểu đoàn lính dù thuộc địa số 6 và tiểu đoàn lính dù Việt Nam số 5) được chi viện cho Điện Biên Phủ vào các ngày 14 và 16/6 theo đề nghị của Binh đoàn tác chiến Tây Bắc (G.O.N.O). Để thiết lập phản công hàng loạt, gia cố các vị trí phòng thủ, đại tá De Castries đã huy động gần hết số quân dự bị.
Liên lạc giữa Điện Biên Phủ - Hồng Cúm (Isabelle) được thực hiện hàng ngày. Pháp tiến hành đi càn ở những ngôi làng cách Điện Biên Phủ 2km về phía tây nhằm tiêu hao lực lượng Việt Minh. Không quân Pháp nỗ lực tiếp tế bằng việc thả dù trong khi pháo phòng không của Việt Minh hoạt động mạnh, việc sơ tán thương binh gặp nhiều khó khăn. Chiếc trực thăng đầu tiên hạ cánh ngày 23/3 và bị bắn hạ khi cất cánh. Máy bay cuối cùng chở 28 người bị thương cất cánh ngày 26/3. Thiệt hại của Pháp và đồng minh ở giai đoạn này là 1.000 quân bị loại khỏi cuộc chiến.
30 Giai đoạn 3 (từ 30/3-05/4). Mạn đông của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và 1 điểm yểm trợ ở mạn tây bắc bị tấn công và buộc phải lui về cố thủ. Tối ngày 31/3, Việt Minh phát động xung kích vào mạn đông khiến khu vực này bị chia cắt, trận đánh ác liệt diễn ra từ ngày 31/3-04/4. Tuy nhiên, việc tiểu đoàn lính Thái số 2 tháo chạy đã khiến mạn tây bắc bị co hẹp lại. Ngày 03 và 04/4, tiểu đoàn 2, trung đoàn lính dù số 1 được thả dù để chi viện cho tập đoàn cứ điểm.
40 Giai đoạn 4 (từ ngày 05/4 đến ngày 01/5). Việt Minh tập trung gây sức ép lên mạn tây bắc của vị trí phòng thủ và bóp nghẹt tập đoàn cứ điểm bằng pháo phòng không. Tuy ngưng tấn công hàng loạt nhưng các đường hào của Việt Minh ngày càng áp sát tập đoàn cứ điểm: tính đến ngày 01/5, tổng số đường hào của họ lên đến gần 400 km. Quân Việt Minh tràn vào mạn tây bắc khiến việc tiếp tế cho các điểm yểm trợ trở nên khó khăn, buộc quân Pháp phải co cụm dần.
Pháo phòng không của Việt Minh ngày càng áp sát và bắt đầu bắn trực tiếp ở khoảng cách gần, khiến quân Pháp gặp nhiều khó khăn trong thả dù tiếp tế và quân chi viện. Việc thả dù 1 tiểu đoàn vào ngày 11 và 12/4 (tiểu đoàn lính dù lê dương số 2, 20 B.E.P) chi viện giúp quân Pháp tái chiếm một điểm yểm trợ ở mạn đông sau khi phản công ác liệt. Khu vực thuộc kiểm soát của Pháp ngày một thu hẹp, việc thả dù ngày càng trở nên bất khả thi, trung bình 100 tấn/ngày được thả dù cùng với quân chi viện không phải là lính dù (đặc biệt là các pháo thủ)[2].
Điện ngày 22/4/1954 của Tổng ủy Dejean gửi về Bộ ngoại giao Pháp báo cáo tình hình Điện Biên Phủ, nguồn: hồ sơ 1K 342, hộp số 5, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
50 Giai đoạn 5 (từ ngày 01 đến 08/5). Việt Minh tấn công tổng lực ở mọi phía khiến tập đoàn cứ điểm thất thủ hoàn toàn.
Ngày 01/5, Tổng chỉ huy quân Việt Minh phát động phản công tổng lực.
Đợt 1: Sau 1 ngày giao tranh, các vị trí của Pháp ở Điện Biên Phủ bị chọc thủng trên gần như toàn bộ khu vực ngoại vi. Các đợt phản công chỉ giúp khôi phục cục bộ một số điểm (đặc biệt là Isabelle - Hồng Cúm). Tiểu đoàn lính dù thuộc địa số 1 (10 B.P.C) được thả dù chi viện từ ngày 02/5.
Đợt 2: Trong đêm ngày 06 rạng sáng ngày 07, Việt Minh tấn công vị trí trung tâm trên toàn bộ khu vực ngoại vi, lực lượng chính tập trung ở mạn đông. Việt Minh gia tăng tấn công Hồng Cúm và phá hủy hoàn toàn pháo binh Pháp đóng tại đây.
Cứ điểm trung tâm Điện Biên Phủ thất thủ lúc 17 giờ ngày 07/5, sau khi cầm cự 56 ngày, hứng chịu hơn 200.000 đạn pháo hơn 60 li. Quân đồn trú ở Hồng Cúm cố phá vòng vây trong khuôn khổ cuộc hành binh Hải Âu (Albatros) nhưng thất bại. Liên lạc điện đài với cứ điểm này dừng hẳn vào lúc 2 giờ sáng ngày 08/5.
Báo cáo của tướng Henri Navarre nêu lên những thiệt hại sơ bộ ước tính là 16 tiểu đoàn (trong đó có 7 tiểu đoàn dù), 2 đơn vị pháo binh cộng với 1 giàn pháo, 1 đại đội xe tăng, cùng các đơn vị biệt phái thuộc các lực lượng và ban khác nhau, 36 máy bay bị phá hủy khi đang bay hoặc ở mặt đất.
Những vấn đề trong chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ của tướng lĩnh Pháp
Việc Him Lam và Độc Lập thất thủ kéo theo khủng hoảng cực kỳ nghiêm trọng kể từ ngày 15/3. Trước tiên là khủng hoảng tâm lý bởi lần đầu tiên quân Pháp chứng kiến sức mạnh của đối phương, sau đó là khủng hoảng về phương diện chiến thuật do một phần trong thống phòng thủ của Pháp sụp đổ, pháo binh bất lực trong việc phá hủy hoặc vô hiệu hóa pháo binh và pháo phòng không của Việt Minh. Quân Pháp đồn trú ở Điện Biên Phủ chỉ được thông tin về kỹ thuật vũ khí và hình thức chiến đấu cần phải đối phó 3 tháng trước đó. Sốc tâm lý do bất ngờ được thể hiện qua sự bất lực và nghi ngờ về khả năng đề kháng của tập đoàn cứ điểm: từ tin tưởng tuyệt đối, quân Pháp chuyển sang nản lòng và hoài nghi.
Hơn thế nữa, Việt Minh siết chặt bố trí phòng thủ, cho pháo phòng không và đạn bắn thẳng vào sân bay cho thấy tập đoàn cứ điểm sẽ bị bóp nghẹt nếu không được hỗ trợ từ bên ngoài hoặc được giải vây. Các chỉ huy dự kiến đưa ra ba biện pháp: tăng cường cho tập đoàn cứ điểm; giải vây bằng các cuộc tấn công từ bên ngoài; rút quân.
10.- Chi viện
Tính đến tiềm lực không quân có thể huy động, thời hạn cần để tập trung phương tiện tiến hành một cuộc hành binh giải vây kiểu này không thể phát động trước 15 ngày. Nếu không được chi viện, tập đoàn cứ điểm không thể cầm cự đến lúc đó. Thêm vào đó, Việt Minh có thể nhanh chóng tấn công trở lại. Cần phải có một cuộc phản công mang tính tâm lý để giải quyết tình trạng căng thẳng trong binh lính: được chi viện một tiểu đoàn sẽ khiến binh lính ở Điện Biên Phủ nghĩ rằng tình hình không bi đát như họ nghĩ và rằng tập đoàn cứ điểm không bị cô lập[3].
Sau khi thả dù 3 tiểu đoàn đầu tiên, tình hình xấu đi buộc phải gửi thêm chi viện gom từ những binh sĩ đơn lẻ từng có bằng lính dù và lính tình nguyện được huấn luyện sơ qua về kỹ thuật tiếp đất[4].
Những ngày cuối cùng của chiến dịch (từ ngày 02/5), kế hoạch giải vây đã không diễn ra vì những lý do đã nêu, tiểu đoàn lính dù cuối cùng được thả xuống theo đề nghị của Chỉ huy Lục quân Bắc Việt Nam hòng giúp tập đoàn cứ điểm cầm cự thêm vài ngày, với hy vọng về một "lệnh ngừng bắn" sẽ diễn ra nhanh chóng ở Genève, cho phép cứu vãn số quân đồn trú còn lại và đặc biệt bảo toàn lâu nhất có thể lợi thế của Pháp ở Điện Biên Phủ trong đàm phán. Cầm cự càng lâu sẽ làm chậm việc quay trở lại đồng bằng châu thổ của lực lượng chiến đấu Việt Minh[5].
20.- Giải vây
a) Xuất phát từ Thượng Lào
Một cuộc hành binh không vận giải vây mang tên Diều Hâu (Condor) với quân số lớn và do các lực lượng lục quân từ Thượng Lào tiến hành đã được nghiên cứu từ ngày 12/01/1953. Từ ngày 15/3, tướng Henri Navarre cho rằng không thể chậm trễ tổ chức và phát động cuộc hành binh này, tuy nhiên, tiềm lực của không quân Pháp không cho phép. Trên thực tế, Việt Minh áp đặt nhịp độ trận đánh, sự xốc lại quân ở tập đoàn cứ điểm sau khủng hoảng ngày 13 và 14/3 vượt gấp đôi so với những dự kiến do Lục quân Bắc Việt Nam đưa ra trước trận đánh[6], ngốn gần như toàn bộ các phương tiện vận tải không quân. Tiềm lực không quân có thể huy động được bị giảm sút do điều kiện thời tiết không ổn định vào mùa này và tỷ lệ thất lạc trong các lần thả dù ngày một tăng cao.
Phải đến đầu tháng 4, cuộc hành binh không vận Kền Kền mới được quyết định[7].Tuy nhiên, kết quả mà Pháp hy vọng từ cuộc hành binh này phụ thuộc vào số quân có thể huy động tham gia cũng như phương tiện vận tải hành quân và yểm trợ không quân. Để đạt hiệu quả, cuộc hành binh cần tới 15-20 tiểu đoàn. Tuy nhiên, 7 tiểu đoàn là số lượng tối đa mà các phương tiện vận tải có thể đáp ứng được: dự kiến một cuộc hành binh với 4 tiểu đoàn đến từ Lào bằng đường bộ và 3 tiểu đoàn dù được thả ở vị trí gần tập đoàn cứ điểm (phần còn lại được huy động sau khi có chi viện của Binh đoàn tác chiến Tây Bắc). Quân số này không đủ để giải vây thực sự cho tập đoàn cứ điểm, nhưng sẽ khiến Việt Minh phải rút một phần lực lượng chiến đấu đang làm nhiệm vụ bao vây Điện Biên Phủ để đối phó[8].
Sau khi được tướng Chỉ huy Lục quân Bắc Việt Nam nghiên cứu, cuộc hành binh được xem xét lại về tính cần thiết tiến quân về Binh đoàn tác chiến Tây Bắc và theo đề nghị của tướng Cogny, giai đoạn không vận của cuộc hành binh sẽ không được phát động trước khi các dự trữ của tập đoàn cứ điểm được phục hồi ở mức 5 cơ số đạn và 5 ngày lương thực. Nhưng Diều Hâu mãi mãi chỉ trên giấy tờ vì không bao giờ hội đủ các điều kiện.
b) Từ đồng bằng châu thổ
Theo các mệnh lệnh của tướng Navarre vào mùa hè 1953, tướng chỉ huy Lục quân Bắc Việt Nam đã nghiên cứu mọi khả năng tấn công nhằm vào các tuyến giao thông của Việt Minh xuất phát từ đồng bằng châu thổ sông Hồng ở Bắc Kỳ. Các nghiên cứu lập thành hồ sơ kèm theo cuộc hành binh được dự kiến chi tiết. Ngay khi nhận thấy lực lượng chiến đấu của Việt Minh di chuyển quân về thượng du, tướng Navarre đã chỉ thị cho tướng Chỉ huy Lục quân Bắc Việt Nam dự kiến những cuộc hành binh có thể được phát động dựa trên phương tiện có thể huy động được. Các đề xuất đã được thảo luận trong cuộc họp diễn ra ngày 28/11 tại Hà Nội. Kế hoạch tổ chức cuộc hành binh nhằm vào Phủ Doãn do Chỉ huy Lục quân Bắc Việt Nam đưa ra sát ngày trong khuôn khổ nghiên cứu được tiến hành theo chỉ thị của Chỉ huy trưởng và bị phản bác vì thiếu phương tiện, một mặt không hiệu quả do không đánh chặn được các tuyến giao thông của Việt Minh[9], mặt khác, kết quả thu được không thể có trước ngày 20/5, nghĩa là trước ngày tập đoàn cứ điểm thất thủ. Do vậy, kế hoạch này không khả thi[10].
c) Giải vây cho tập đoàn cứ điểm hoàn toàn bằng tấn công không quân
Số lượng máy bay tiêm kích và ném bom không cho phép quân Pháp tiến hành cuộc tấn công kiểu này. Chỉ khi không quân Pháp can thiệp ồ ạt, với khả năng cao gấp 10 lần mới có thể có kết quả khi không kích các tuyến giao thông hoặc pháo binh, pháo phòng không của Việt Minh.
Theo các chỉ thị mật của chính phủ, một cuộc tấn công kiểu này với tên chính thức là Kền Kền (Vautour) đã được chuẩn bị cùng với Chỉ huy Không quân Mỹ ở Thái Bình Dương. Cuộc hành binh này có thể triển khai khoảng 300 máy bay tiêm kích ném bom từ các tàu sân bay và 60 máy bay ném bom hạng nặng B.29 xuất kích từ Philipine. Tuy nhiên, kế hoạch này đã thất bại do Mỹ cho rằng cần có thời gian để thương lượng việc sử dụng những căn cứ quân sự của họ ở Thái Bình Dương.
30.- Rút quân bằng máy bay
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ban đầu được thiết kế để đối phó với việc di chuyển quân về Thượng Lào của Đại đoàn 316 của Việt Minh, nghĩa là đối phó với một sư đoàn không có vũ khí hạng nặng. Pháp có thể rút quân vào đầu tháng 12 khi nhận thấy các Đại đoàn 308 và 312 di chuyển quân nhưng quyết định chỉ được đưa ra sau ngày 05/12, và sau ngày này, Đại đoàn 316 đã áp sát Điện Biên Phủ khiến việc rút quân bằng máy bay từ lúc đó trở nên khá khó khăn. Trong bất kỳ tình huống nào, Pháp sẽ phải chịu thiệt hại từ 2-3 tiểu đoàn. Đến ngày 05/12/1953, mối đe dọa lớn nhằm vào Điện Biên Phủ chưa lộ rõ nên không quyết định nào kiểu đó được đưa ra. Chỉ đến cuối tháng 12/1953, nguy cơ Việt Minh dần lớn nhưng do chưa biết chính xác số lượng quân Việt Minh đóng quanh Điện Biên Phủ nên Pháp không dự kiến rút quân[11], vì cho rằng đó là sự trốn chạy đáng xấu hổ không thể biện minh được: không cho phép nghĩ đến việc phải từ bỏ một vị trí đóng quân được tổ chức cực kỳ tốt. Cho đến trước ngày 15/3, niềm tin về lối thoát danh dự cho trận đánh vẫn còn trong suy nghĩ của mọi cấp chỉ huy, từ đơn vị cho đến Binh đoàn tác chiến Tây Bắc hay Chỉ huy Lục quân Bắc Việt Nam, tướng Chỉ huy trưởng quân Pháp ở Đông Dương[12].
Nhiệm vụ của quân đồn trú được duy trì: kháng cự trước mọi xung kích của Việt Minh và nếu bị vây hãm sẽ cố cầm cự cho đến mùa mưa - khi đó chỉ huy Việt Minh sẽ buộc phải rút pháo binh và vũ khí hạng nặng do điều kiện thời tiết ngăn tiếp tế. Tình hình chung khi đó cho phép có thể giảm số quân đóng ở tập đoàn cứ điểm hoặc tiến hành phản công. Một khi chấp nhận giao tranh ở Điện Biên Phủ, việc phá vòng vây sẽ kéo theo việc phá hủy gần như toàn bộ số quân đồn trú trong các điều kiện không mấy danh dự, hơn nữa, hoàn cảnh diễn ra những trận đánh cuối cùng không cho phép.
Ảnh trên: Quân Việt Minh mừng chiến thắng trên xác máy bay Pháp bị hạ
Ảnh dưới: Tù binh Pháp nghe bộ đội hướng dẫn, nguồn: Keystone, hồ sơ 1 K 342, hộp số 6, Lưu trữ Bộ quốc phòng Pháp
Những biện pháp do tướng lĩnh Pháp dự kiến không bao giờ thành hiện thực bởi vào ngày 07/5/1954, lá cờ của quân đội Việt Minh đã bay trên nóc hầm chỉ huy của tướng De Castries, đánh dấu sự thất thủ hoàn toàn của tập đoàn cứ điểm - pháo đài tưởng chừng bất khả xâm phạm. Không tìm được lối thoát danh dự trong cuộc chiến Đông Dương, Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Genève. Vai trò cũng như trách nhiệm của tướng Henri Navarre trong thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ đã được đưa ra trong báo cáo kết luận Ủy ban điều tra quân sự năm 1955[13].
[1] . Bài viết là lược dịch phần báo cáo về Điện Biên Phủ của tướng Henri Navarre, giúp làm rõ hơn về chiến dịch qua góc nhìn của bên kia chiến tuyến.
[2]. Theo đề nghị số 9218/FTNV/I/ORG của Lục quân Bắc Việt Nam ngày 07/04/1954.
[3]. Quyết định này được thông qua với bức điện số 3475/EMFA/12/OPS do tướng Ely - Tổng tham mưu trưởng các lực lượng quân đội Pháp ký.
[4]. Quyết định số 119/EMIFT ngày 15/04.
[5]. Điểm cuối cùng được Chỉ huy Lục quân Bắc Việt Nam cho là mấu chốt trong báo cáo cá nhân đề ngày 03/5: «Sự cầm cự tại chỗ cho đến khi cạn kiệt phương tiện theo tôi đem lại hai 2 lợi thế mang tính quyết định […]. Tướng Cogny kết luận bằng đề nghị sau: "Cầm cự tại chỗ ở Điện Biên Phủ cho đến khi cạn kiện mọi phương tiện, duy trì đến giới hạn đỉnh điểm của mọi khả năng để cầm chân và suy yếu tối đa lực lượng chiến đấu của Việt Minh".
[6]. 200 tấn/ngày (tối đa lên đến 250 tấn/ngày khi thời tiết đẹp) thay vì 96 tấn/ngày (theo báo cáo không đề số của Lục quân Bắc Việt Nam ngày 28/12/1953. Thêm vào đó, tiềm lực của các đại đội tiếp tế bằng đường hàng không không đủ để đảm bảo 260 tấn/ngày - tải trọng cần thiết để hỗ trợ Điện Biên Phủ cũng như cuộc hành binh giải vây.
[7][7]. Điện chính thức số 95/EMIFT ngày 06/04 của Tham mưu liên Lục quân chỉ thị cho Lục quân Lào chuẩn bị chọc thủng Nga Na Song với 4 tiểu đoàn.
[8]. "Cá nhân tôi cho rằng điều có lợi mà cuộc hành binh này mang lại chính là làm suy yếu trung đoàn 148 và lấy đi 1-2 tiểu đoàn khiến Việt Minh không thể giành chiến thắng" (Theo các bức điện số 05/01 ngày 23/04 và 01/01/FTVN ngày 25/04, Điện 661/EMIFT ngày 23/04 của Lục quân Bắc Việt Nam và Tham mưu liên Lục quân).
[9]. Điều này thể hiện qua cuộc hành binh Lorraine không hiệu quả của năm trước với cùng mục tiêu.
[10]. Điện số 679/EMIFT ngày 26/4/1954 của Tham mưu liên Lục quân.
[11]. Ngay cả khi Đại đoàn 308 tiến quân về Thượng Lào, Điện Biên Phủ vẫn do hai đại đoàn khác của Việt Minh chặn mọi ngả đường rút lui của quân Pháp, theo như báo cáo của tướng Navarre.
[12]. Ngày 04/3, trong chuyến thị sát cuối cùng đến tập đoàn cứ điểm, tướng Navarre đã hỏi nhiểu chỉ huy đơn vị và nhận thấy sự tin tưởng tuyệt đối ở họ. Trước khi rời đi, ông ta hỏi tướng Cogny và đại tá De Castries về những suy nghĩ chủ quan của họ, cả hai đều tuyên bố sẵn sàng cho trận đánh và tin chắc sẽ thành công.
[13]. https://www.archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/uy-ban-dieu-tra-quan-su-phap-va-nhung-ket-luan-ve-that-bai-cua-dien-bien-phu.htm
Ngọc Nhàn