03:05 PM 11/06/2025  | 

Thự Công đồng 公同署 là tổ chức tập hợp các quan văn, quan võ có chức vụ cao, phẩm hàm lớn, họp bàn quyết định công việc hoặc đề ra giải pháp trình lên nhà Vua quyết định. Năm 1802, nhà Nguyễn cho đúc một quả ấn Công đồng bằng bạc khắc bốn chữ Công đồng chi ấn và ấn kiềm khắc bốn chữ Đồng di hiệp cung. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), nhà Vua cho đúc lại ấn của Thự Công đồng và đổi khắc thành bốn chữ Đình thần chi ấn. Nay hiện vật các hình dấu của tổ chức này không còn nhưng những hình dấu màu mực son Công đồng chi ấn, Đình thần chi ấn, Đồng di hiệp cung vẫn còn lưu trên những trang Sử liệu gốc – Châu bản triều Nguyễn hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.

Thời Tây Sơn, vào tháng Tám năm 1788, Nguyễn Ánh đã cho “đặt thự Công đồng, làm nơi các quan văn hội nghị. Phàm theo chỉ vua mà truyền thị và sai phái đều xưng là Công đồng (ấn khắc bốn chữ Thiêm ngôn doãn hiệp[1] in bằng mực)[2]. Thự Công đồng không phải là cơ quan hành chính chuyên trách riêng biệt mà là tổ chức gồm những tướng lĩnh và văn thần hàng đầu của triều đình, nghị bàn công việc hoặc đề ra giải pháp trình lên nhà Vua tham khảo để quyết định những việc trọng đại. Thự Công đồng là cầu nối bảo đảm sự liên lạc giữa nhà Vua và nhiều Bộ, Viện khác nhau tại Kinh đô. Các quan trực thần có nhiệm vụ ghi chép các kế sách chiến lược, chiến thuật công việc được hoạch định và xây dựng lực lượng, soạn thảo văn bản quan trọng. Mệnh lệnh từ Nguyễn Ánh xuống các đơn vị hoặc thứ dân theo chỉ truyền, hoặc chỉ sai qua Thự Công đồng được gọi là Công đồng truyền, Công đồng sai.

Còn một từ khác chỉ về định chế này là đình nghị. Tháng Năm năm Gia Long thứ 2 (1803), Vua dụ định lệ đình nghị, chiếu rằng: “Nước nhà mới định yên, công việc còn bề bộn, ta một ngày muôn việc, sợ không thể chu tất được cả. Bọn khanh đều là người gần gũi, nên sáng suốt gắng làm để có ích cho chính trị[3]. Với quyết định này, định chế công đồng hình thành. Theo đó, ban đầu chỉ “quan võ từ thống chế, phó đô thống chế và phó tướng trở lên (tức chánh nhị phẩm, 2/1), quan văn từ tham tri trở lên (tòng nhị phẩm 2/2), mỗi tháng cứ bốn ngày mồng 1, mồng 8, 15, 23 thì họp bàn ở Tả vu, phàm những việc mà các Ti không giải quyết được thì phải bàn nhau mà xử định. Đến như sự thể quan trọng thì cũng chước lượng bàn bạc trước, rồi sau tâu xin quyết định[4]. Tháng Giêng năm Gia Long thứ 4 (1805) “dựng công thự cho các quan văn, võ (theo lệ cũ các quan trong triều, võ bên tả, văn bên hữu. Công thự võ, nay là viện Đãi lậu[5] tả; công thự văn, nay là viện Đãi lậu hữu). Đổi định lệ triều đình hội nghị. Quan võ từ phó tướng, phó đô thống chế, thống chế trở lên, quan văn từ tham tri trở lên, hằng tháng bốn ngày 2, 9, 16, 24, họp bàn ở công thự võ. Phàm việc quan trọng của các nha mà các quan phụ trách không giải quyết được, các án kiện tụng ở các địa phương, xử chưa rõ lẽ, cùng quân dân có oan khuất kêu lên thì hội đồng xử đoán, rồi sau tâu lên để xin quyết định. Ngày hội khi giọt đồng hồ xuống 12 khắc thì lui. Người nào vắng mặt mà không cáo thì cho hặc[6].

Năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), Vua quyết định mở rộng thành phần công đồng, cho phép quan Văn từ tòng tam phẩm trở lên, quan Võ từ tòng nhị phẩm trở lên, đều được tham dự. Quyết định hay đề nghị của Công đồng được đóng ấn Công đồng chi ấn cùng ấn quan phòng của các đại thần tham dự. Công đồng là tập thể đại thần làm việc theo ý Vua, được phép thay mặt Vua để quyết định nên có hiệu lực pháp lí cao, mang tính cưỡng hành. Vì vậy, trong phần phàm lệ của sách Đại Nam Thực lục đệ nhất kỉ, các Sử thần đã ghi làm nguyên tắc biên soạn rằng: “Lời Vua ban xuống gọi là sắc, là dụ. Công đồng tuân theo ý vua mà truyền bảo, cũng viết chức sắc chữ dụ[7].

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên đệ nhất kỉ, quyển 16, trang 14. Ghi rằng: Ngày Canh Dần tháng 3 năm 1802, đúc Công đồng chi ấn.

 

Để khẳng định pháp lí của Sở Công đồng, khi mới thành lập vào ngày Canh Dần tháng Ba năm 1802, triều đình đã thống nhất “cho đúc một quả ấn Công đồng bằng bạc (đều đóng bằng son)[8] khắc bốn chữ Công đồng chi ấn, chia làm 2 hàng, nét khắc vuông vắn. Đến tháng Sáu năm đấy, để tránh sự giả tạo và gian trá, nhà Vua ban chỉ dụ cho khắc kiềm ấn “bốn chữ Đồng di hiệp cung (công đồng đều thỏa thuận), phàm Công đồng truyền thị việc gì thì dùng đóng ở chỗ giáp lề, tẩy cải cũng dùng. Hạ lệnh mồng 1 tháng Bảy thì bắt đầu dùng”[9].

Cuối năm Minh Mệnh 3 (1822), chỉ dụ quy định về việc sử dụng ấn công đồng: “chuẩn định cho các quan trong triều, phàm tờ tấu nào, dưới chỗ kí tên được đóng ấn Quan phòng, chỗ niên hiệu đóng ấn Công đồng, chỗ giáp tờ giấy đóng ấn Đồng di hiệp cung[10]. Như vậy, bộ ấn kiềm Công đồng chi ấn 同之印 và Đồng di hiệp cung 協恭do Thự Công đồng quản lí, sử dụng đóng trên các văn bản quyết nghị (Công đồng truyền, Công đồng phó, Công đồng sai) của Hội nghị Công đồng đương thời.

Dấu Công đồng chi ấn (sau này là Đình thần chi ấn) được dùng với vai trò như một thể thức công nhận văn bản ghi chép của Hội nghị Công đồng. Ngoài ra, trên văn bản được đóng nhiều dấu Quan phòng của các Đại thần tham dự Hội nghị theo quy định “nếu việc do vũ ban chuyên nghị hoặc văn ban chuyên nghị, thì những viên dự ban đó kí tên ở cuối tờ giấy đóng ấn Quan phòng, còn trên chữ mỗ nguyệt xin đóng ấn Công đồng chi ấn[11]. Tháng Ba năm Minh Mệnh thứ 3 (1822): “Chuẩn định từ nay các chương tấu về đình nghị đều xưng là bọn đình thần (trước xưng là bọn văn võ thần), những văn bằng truyền thị cũng xưng là đình thần (trước xưng là công đồng), đều đóng ấn công đồng (lệ trước, sớ sách về đình nghị chỉ đóng ấn quan phòng ở chỗ ký tên cuối giấy)[12]. Như vậy, trường hợp võ ban chuyên nghị hoặc văn ban chuyên nghị, thậm chí cả văn ban và võ ban chuyên nghị thì những viên dự ban đó kí tên ở cuối tờ giấy đóng ấn Quan phòng, còn chỗ trên chữ mỗ nguyệt đóng ấn Công đồng chi ấn (sau này là Đình thần chi ấn). Trên bản tấu của Đình thần ngày 30 tháng Giêng năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) về việc thăng bổ Tri huyện các huyện, có hình dấu Công đồng chi ấn đóng ở chỗ niên hiệu; dấu kiềm Đồng di hiệp cung đóng lên chữ quan trọng, thêm bớt và giáp trang; các dấu quan phòng Chưởng Thuỷ quân; Thần sách quân Tả doanh; Hộ bộ Thượng thư; Tả Hữu Tham tri các Bộ Lại, Binh, Lễ; Đại lý tự khanh đóng ở chỗ ký tên cuối giấy [13].

Hình dấu Công đồng chi ấn, kích thước 9,7 cm x 9,7 cm; dấu kiềm Đồng di hiệp cung, kích thước 3,2 cm x 3,2 cm và các dấu quan phòng đóng trên bản tấu của Đình thần ngày 30 tháng Giêng năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) về việc thăng bổ Tri huyện các huyện. Nguồn: TTLTQG I, Châu bản triều Nguyễn.

 

Nghị chuẩn  được ghi trong Châu bản và các bộ sách sử triều Nguyễn, có nghĩa là : vấn đề này đã được đình thần thảo luận, bàn bạc, đúc kết rồi trình lên nhà Vua và được Vua chuẩn y cho thi hành. Nghị chuẩn có giá trị như sắc dụ. Hậu thân của định chế Công đồng là Đình nghị  bàn thảo ở triều đình. “Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), chỉ dụ: Từ trước đến nay các việc Đình nghị đều dùng ấn Công đồng, nghĩ 2 chữ công đồng các nha cũng có thể thông dùng được nhưng văn nghĩa đó xem ra chưa được phân biệt cho lắm, nay chuẩn đổi làm ấn đình ấn. Nha hữu ty chiếu ngay kiểu mẫu, chọn ngày tốt đúc lại. Đợi đến năm sau ngày khai ấn bắt đầu sử dụng, phàm có Đình thần nghị tâu và thi hành các việc thì lấy mà dùng, còn ấn “công đồng” trước đây thì hội đồng để tiêu hủy”[14]. Như vậy, Hội nghị Công đồng đổi thành Hội đồng Đình thần và khắc lại dấu Đình thần chi ấn 之印 thay Công đồng chi ấn 同之印. Riêng dấu kiềm Đồng di hiệp cung 協恭 vẫn giữ nguyên để dùng đóng ở trên chữ quan trọng, thêm bớt và giáp trang.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên đệ nhất kỉ, quyển 21, trang 12. Ghi chép: Đúc triện nhỏ bằng bạc khắc bốn chữ Đồng di hiệp cung.

 

Vào ngày tháng tốt năm Tự Đức thứ 28 (1876), đúc dấu ấn bằng đồng được khắc 4 chữ Đình thần chi ấn, nặng 2 cân 15 lạng (mỗi cạnh quả ấn đo được 98 milimét, dày được 15 milimét, chiều cao gồm cả núm cầm được 75 milimét. Nặng 1 kg 790 gr)[15]. Quả ấn này đã bị mất lúc xảy ra biến cố trọng đại ở Kinh thành vào tháng Bảy năm 1885. Bởi vậy, ngày 27 tháng Chín năm Hàm Nghi nguyên niên (3.11.1885), Thượng thư Đại thần Bộ Lễ đã xin giao cho Bộ Công tạo đúc một quả ấn khác theo mẫu giống y như quả ấn cũ để dùng cho công vụ. Ngày mồng 1 tháng Chạp năm Ất Dậu triều Đồng Khánh (5.1.1886), Nội các tấu về việc nhận được một quả ấn và một quả kiềm do Vũ khố Đốc công nha chuyển đến, cả hai đều đúc bằng đồng, mỗi quả có khắc riêng 4 chữ Nho Đình thần chi ấnĐồng di hiệp cung [16]. Ngày mồng 3 tháng Mười năm Bảo Đại thứ 11 (16.11.1936), Thượng thư Đại thần, Chánh ngự tiền văn phòng dâng biểu tấu về việc quả ấn Đình thần chi ấn đúc năm Tự Đức thứ 28 (1876) được tìm thấy ở nước Pháp bởi ông L.Sogny, Chánh mật thám Trung kì[17].

 

Núm ấn Đình thần chi ấn.

Nguồn : Những người bạn Cố đô Huế B.A.V.H, tập 24-1937, Nxb. Thuận Hóa, tr.127.

 

Hiện vật của Thự Công đồng ngày nay không còn, song những hình dấu màu son đỏ của cơ quan này in trên Châu bản triều Nguyễn các đời Vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức vẫn còn mãi với thời gian.

 

 

[1] Thiêm ngôn doãn hiệp: Đều bàn hiệp nhau.

[2] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên, tập 1, Nxb Giáo dục, HN. 2002, tr. 235.

[3] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên, tập 1, Nxb Giáo dục, HN. 2002, tr. 597.

[4] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên, tập 1, Nxb Giáo dục, HN. 2002, tr. 597.

[5] Viện Đãi lậu: Chỗ các quan chờ đến giờ (lậu) để vào chầu.

[6] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên, tập 1, Nxb Giáo dục, HN. 2002, tr. 668.

[7] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên, tập 1, Nxb Giáo dục, HN. 2002, tr. 200.

[8] Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, tập 4, Nxb Thuận Hóa, Huế. 2005, tr. 198.

[9] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên, tập 1, Nxb Giáo dục, HN. 2002, tr. 601.

[10] Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, Nxb Thuận Hóa, 2009, tr.1449.

[11] Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, Nxb Thuận Hóa, 2005, tr.214.

[12] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên, tập 2, Nxb Giáo dục, HN. 2002, tr. 196.

[13] TTLTQG 1, Châu bản triều Nguyễn.

[14] Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6, Nxb Thuận Hóa, 1993, tr.308.

[15] Một quả ấn của Hoàng triều được tìm thấy ở Pháp, Những người bạn Cố đô Huế B.A.V.H, tập 24-1937, Nxb. Thuận Hóa, tr.99.

[16] Những người bạn Cố đô Huế B.A.V.H, tập 24-1937, Nxb. Thuận Hóa, tr.100.

[17] Những người bạn Cố đô Huế B.A.V.H, tập 24-1937, Nxb. Thuận Hóa, tr.100.

Thu Thủy