Những toan tính của Pháp ở Đông Dương năm 1945[1]
20 giờ 30 phút ngày 09/3/1945, quân Nhật tấn công quân Pháp ở Cam Ranh, mở màn cuộc hất cẳng Pháp ở Đông Dương sau khi tối hậu thư gửi cho Toàn quyền - Đô đốc Decoux bị từ chối. Pháp hoàn toàn bất ngờ trước các cuộc tấn công của Nhật do những thông tin tình báo Hải quân dự báo Nhật có thể tiến hành các hành động quân sự vào ngày 12/3, thậm chí là ngày 15/3. Toàn bộ binh lính đóng trong các doanh trại của quân đội Pháp ở Đông Dương bị giam lỏng như tù binh. Ngày 08/5, ở châu Âu, phát xít Đức đầu hàng quân Đồng Minh không điều kiện và Hội nghị nguyên thủ ba cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh diễn ra tại Potsdam (Đức) từ ngày 17/7 đến ngày 02/8/1945 quyết định thành lập Hội đồng ngoại trưởng (gồm đại biểu Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc để chuẩn bị các hòa ước sẽ ký với Đức và các nước đồng minh của Đức, trong đó có Nhật Bản. Tại Hội nghị này, Đông Dương được đặt trên bàn cờ địa - chính trị khi phiên họp ngày 26/7 đạt được thỏa thuận liên quan đến kết thúc xung đột trên bán đảo này. Theo đó, quân Anh tiếp quản sự đầu hàng của quân Nhật ở khu vực nam vĩ tuyến 16 và quân Tưởng đóng ở khu vực bắc vĩ tuyến 16 của Việt Nam.
Ngày 10/8[2], báo cáo với Bộ Tổng tham mưu quốc phòng Pháp EMG/3 số 538, Tướng -Tham mưu trưởng Hải quân nhấn mạnh việc Pháp cần tham chiến ở Viễn Đông. Ngoài các chiến hạm được cử đi trong tháng 6 theo bản ghi nhớ Pháp - Anh có tên gọi "A.F.N.1[3]", Tham mưu trưởng Pháp dự kiến gửi thêm hai tàu sân bay Béarn và Dixmude cùng hai hải đội không quân hải quân đến khu vực này. Theo viên tướng này, Hải quân Pháp phải huy động mọi nguồn lực có thể để đáp ứng yêu cầu gửi tối đa lực lượng đến Thái Bình Dương. Việc gửi quân như dự kiến chỉ là quyết định mang tính nguyên tắc và phụ thuộc vào tình hình thực tế, cho phép các tàu chiến của Pháp đến vào thời điểm quân Anh kiểm soát hoàn toàn tình hình Malaysia và Bộ tư lệnh Đông Nam Á[4] có thể tiến hành các chiến dịch từ Singapore đến Hồng Kông, nghĩa là khu vực có Đông Dương. Việc điều lực lượng Hải quân quy mô lớn đến khu vực này nhằm chứng tỏ vị thế cường quốc của Pháp trên biển lẫn thuộc địa. Tuy nhiên, việc Mỹ thả bom hạt nhân xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki buộc Nhật phải đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện, kết thúc cuộc chiến ở Thái Bình Dương, chính phủ Pháp phải xem lại những tính toán ban đầu, ưu tiên tái thiết sự hiện diện ở Đông Dương.
Tàu Richelieu chở quân Pháp đến Sài Gòn năm 1945, nguồn: Hải quân Pháp ở Đông Dương đã dẫn, tập 2

Tàu sân bay Béarn được điều đến Đông Dương năm 1945, nguồn: Hải quân Pháp ở Đông Dương đã dẫn, tập 2
Ngày 11/8, chỉ thị EMG/3 số 542 của Tổng Tham mưu trưởng Pháp lệnh cho Hải quân cho dừng mọi nhiệm vụ không cần thiết đối với các chiến hạm được chỉ định để điều chuyển tới Đông Dương theo nhiệm vụ được giao. Chỉ thị nêu rõ, đại tá Hải quân Commentry - Chỉ huy trưởng Lục quân Pháp ở Bắc Kỳ (được bổ nhiệm từ tháng 3/1945) có nhiệm vụ tái chiếm khu vực này bằng mọi giá. Để hoàn thiện bộ máy chỉ huy quân sự cấp cao chuẩn bị cho việc tái chiếm Đông Dương, ngày 16/8, Đô đốc Thierry d'Argenlieu được bổ nhiệm làm Cao ủy ở Đông Dương với quyền hạn giống như Tổng chỉ huy và một ngày sau đó, tướng Leclerc được bổ nhiệm làm Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông và đại tá Hải quân Commentry tạm thời làm Chỉ huy Hải quân Pháp ở Đông Dương.
Cách mạng Tháng Tám và những mối nguy "giặc ngoài"
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình quốc tế và khu vực, thực hiện Lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi quân và dân cả nước tiến hành tổng khởi nghĩa để giành chính quyền. Ngày 18/8, quân đội của Mặt trận Việt Minh chiếm được một số tòa nhà hành chính ở Hà Nội. Sáng ngày 19/8, đông đảo quần chúng tập trung kéo đến quảng trường Nhà hát Lớn dự cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức, kêu gọi nhân dân đứng dậy giành chính quyền.Tối cùng ngày, các cơ quan quan trọng của chính quyền bù nhìn tay sai tại Hà Nội đã về tay cách mạng, Việt Minh giành thắng lợi hoàn toàn, làm chủ thành phố, sự kiện này đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào khởi nghĩa trong cả nước, đặc biệt là ở Huế và Sài Gòn. Ngày 25/8, vua Bảo Đại thoái vị, trở thành công dân Vĩnh Thụy - cố vấn cấp cao của chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngày 02/9, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH). Tuy nhiên, ngay trong những ngày đầu thành lập, chính phủ non trẻ đã phải đối mặt với những mối nguy "giặc ngoài".
Sau khi tướng Leclerc thay mặt chính phủ Pháp ký hiệp định đình chiến với đại diện của chính phủ Nhật Bản ngày 02/9 trên tàu thiết giáp Missouri đậu ở vịnh Tokyo, Pháp bắt đầu triển khai các hành động quân sự và chính trị đối với Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam. Từ ngày 05 - 06/9, sau các cuộc trao đổi về việc đưa Hải quân Pháp trở lại Đông Dương, hai chính phủ Pháp - Anh ký thêm bản ghi nhớ "A.F.N 2". Và ngay trong ngày 06/9, những phái bộ Anh đầu tiên đến sân bay Tân Sơn Nhất; ba ngày sau, quân Tưởng do tướng Lư Hán chỉ huy vào Hà Nội theo thỏa thuận Potsdam.
Ngày 11/9, lực lượng Hải quân Pháp ở Viễn Đông (F.N.E.O) được thành lập dưới sự chỉ huy của Đô đốc Auboyneau. Ngay sau khi được bổ nhiệm ngày 13/9, viên Đô đốc này đã ra lệnh tấn công tái chiếm Sài Gòn: ngày 21/9, quân Pháp chiếm lại kho vũ khí Sài Gòn, tái vũ trang số quân Pháp bị Nhật giam giữ, thành lập một tiểu đoàn Bộ binh Hải quân vào hai ngày tiếp theo và tái chiếm trụ sở của một số cơ quan hành chính của thành phố.
Ngày 30/9, những chiến hạm Anh chở các sĩ quan hải quân[5] đến Sài Gòn; tại đây, Đô đốc Mountbatten - Chỉ huy Hải quân Anh ở Đông Nam Á tiếp nhận thanh kiếm của tướng Terauchi - Chỉ huy quân Nhật. Từ ngày 06-16/10/1945, khoảng 15 máy bay vận tải của Anh chở Sư đoàn Ấn Độ số 12 đến Sài Gòn. Ngày 09/10, tàu Richelieu (Pháp) chở một đơn vị đổ bộ gồm 15 sĩ quan cùng 252 lính đến cảng Sài Gòn. Từ ngày 01-15/10, tướng Gracey (Anh) chỉ huy tái chiếm các vùng quanh Sài Gòn, trong khi quân Pháp dọn đường cho lực lượng viễn chinh đến Việt Nam.Từ ngày 15/10 - 20/10, các chiến hạm Pháp chở lính lục quân, hải quân đổ bộ vào Sài Gòn. Từ tháng 11/1945 đến tháng 01/1946, quân Pháp liên tiếp tấn công tái chiếm Nam Trung Kỳ, đặc biệt là thành phố Nha Trang.

Các đơn vị Pháp của tướng Leclerc lên tàu từ Marseille đến Đông Dương, tháng 9/1945,
nguồn: Roger Viollet

Báo cáo về tình hình Đông Dương cuối tháng 9/1945, nguồn: hồ sơ 7U 2494, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Những nỗ lực trì hoãn để chuẩn bị cho ngày Toàn quốc kháng chiến[6]
Sau khi tái chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ, Pháp bắt đầu tính tới việc chiếm lại miền Bắc Việt Nam nên quyết định phát động cuộc hành quân hỗn hợp mang tên Bentre[7], cho quân đổ bộ vào Hải Phòng ngày 06/3/1946. Trước tình thế nguy cấp đó, chính phủ Việt Nam DCCH do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã nỗ lực trì hoãn. Nỗ lực đầu tiên tài tình và khéo léo là ký Hiệp định sơ bộ với đại diện chính phủ Pháp là Cao ủy Sainteny vào cuối buổi chiều ngày 06/3/1946. Theo Hiệp định này, Hội nghị thương lượng đi đến hiệp định chính thức có thể diễn ra tại một trong ba địa điểm là Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris. Hiệp định sơ bộ sau đó được bổ sung bằng Thỏa thuận phụ đính Hà Nội ký ngày 07/3 và Thỏa thuận quân sự bổ sung ngày 03/4 giữa các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh - Chủ tịch và Phó chủ tịch Hội đồng cấp cao Quốc phòng của Việt Nam DCCH với tướng Raoul Salan - đại diện quân sự của Cao ủy Cộng hòa Pháp. Sau cuộc gặp ngày 24/3 giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đô đốc Thierry d'Argenlieu trên tàu Emile Bertin ở vịnh Hạ Long, hai bên ký thêm thỏa thuận quân sự tại Hà Nội vào ngày 03/4.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và tướng Leclerc trên tàu Emile Bertin ngày 24/3/1946, nguồn: Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Trong khi chính phủ Việt Nam DCCH tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các điều khoản của Hiệp định sơ bộ, quân Pháp liên tiếp vi phạm khi tiếp tục hành quân bình định, gây hấn ở Nam Bộ và tự ý chiếm đóng những nơi không được quy định ở Bắc Bộ. Dù được chính phủ Felix Gouin phê chuẩn ngày 09/3/1946, một số chính khách chủ chiến của Pháp vẫn phủ nhận, xuyên tạc nhiều điều khoản trong Hiệp định và tìm cách trì hoãn đàm phán chính thức ở Paris.

Danh sách đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam DCCH tại Hội nghị Đà Lạt, nguồn: hồ sơ 10H 601, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Để chuẩn bị cho Hội nghị Paris, chính phủ hai nước đồng ý tổ chức Hội nghị trù bị ở Đà Lạt. Theo báo cáo của tình báo Pháp[8], đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam DCCH đi máy bay Junker đến Đà Lạt ngày 15 và 17/4/1946. Trong suốt quá trình diễn ra hội nghị, đoàn Việt Nam thể hiện thiện chí hòa bình nhưng cương quyết bảo vệ nền độc lập tự do vừa giành được cũng như toàn vẹn lãnh thổ, hy vọng đạt được các thỏa thuận chính thức nhằm chấm dứt xung đột. Trong phiên họp ngày 19/4, đồng chí Dương Bạch Mai - thành viên của đoàn nêu rõ quan điểm của chính phủ ta: yêu cầu Pháp ngừng ngay lập tức mọi hành động thù địch ở Nam Bộ; các đơn vị phải đóng ở các vị trí theo quy định của Hiệp định sơ bộ, trả tự do cho tù chính trị và bảo đảm tự do hành động chính trị cho Nam Bộ. Nhiều câu hỏi của đoàn Việt Nam không được phía Pháp trả lời. Trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài, đồng chí Dương Bạch Mai tuyên bố, để đạt được thỏa thuận cần có sự tham gia của những đại diện của nước Pháp Mới[9] chứ không phải là những người theo chủ nghĩa thực dân. Sau ba tuần đàm phán, tuy không đạt được sự nhất trí giữa hai bên nhưng Hội nghị Đà Lạt vẫn là bước chuẩn bị cho hội nghị chính thức tại Pháp.
Ngày 22/6/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Paris và được Bộ trưởng Bộ Hải ngoại Marius Moutet, Tướng - Tham mưu trưởng Lục quân Pháp Revers cùng nhiều chính khách, trong đó có đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Pháp ra đón tại cầu thang máy bay. 10 giờ 5 phút ngày 06/7/1946, tại Fontainebleau khai mạc hội nghị giữa chính phủ Pháp và chính phủ Việt Nam DCCH do đồng chí Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn. Tuy nhiên, ngày 01/8, hãng thông tấn Pháp AFP đưa tin Hội nghị tạm dừng do những bất đồng liên quan đến vấn đề ba Kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ), nguyên nhân là Pháp muốn chia cắt Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên khỏi Việt Nam. Cũng theo AFP, 15 thành viên của đoàn đại biểu Việt Nam dự Hội nghị đã rời Paris ngày 13/9 đi Toulon lên tàu Pasteur về Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng một số thành viên ở lại và trong tối ngày 14/9/1946, bản Tạm ước Modus vivendi gồm 11 điều đã được ký giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh - đại diện cho chính phủ Việt Nam DCCH và Bộ trưởng Bộ Hải ngoại Marius Moutet - đại diện cho chính phủ Pháp. Theo Tạm ước, hai nước thống nhất cùng nhau tìm kiếm để đạt được những thỏa thuận đặc biệt cho tất cả các vấn đề, nhằm thắt chặt quan hệ hữu nghị và tiến tới một hiệp định chung cuối cùng. Các thương lượng được tiến hành chậm nhất là vào tháng 01/1947 và Tạm ước có hiệu lực từ ngày 30/10/1946.

Đồng chí Phạm Văn Đồng phát biểu tại Hội nghị Fontainebleau, nguồn: hồ sơ 10H 2354 Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Sau ba tháng ở Pháp, ngày 19/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên tàu Dumont d'Urville từ Toulon về Việt Nam, hội kiến với Đô đốc Thierry d'Argenlieu ở Cam Ranh ngày 18/10 để trao đổi về Tạm ước và ngày 25/10, về tới Hải Phòng.
Tuy nhiên, với dã tâm quyết tái chiếm Việt Nam, quân Pháp vẫn không ngừng gia tăng các hoạt động khiêu khích, gây chiến nghiêm trọng chống lại chính phủ và nhân dân ta. Ngày 20/11, chúng bắt đầu gây hấn ở Hải Phòng và ngày 19/12 tiếp tục gây hấn ở Hà Nội. Tạm ước Modus vivendi bị phá bỏ chỉ vài tháng sau khi được ký kết, buộc nhân dân Việt Nam phải tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. Tạm ước là giải pháp chính trị linh hoạt, tài tình nhằm bảo vệ Hiệp định sơ bộ 06/3/1946, cứu vãn Hội nghị Fontainebleau đồng thời giúp chúng ta tranh thủ thời gian hòa bình để tiếp tục xây dựng và củng cố lực lượng cho tới ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946.

Chỉ thị của Ban Thường vụ liên tỉnh miền Trung về việc thực thi Tạm ước ngày 14/9/1946, nguồn: hồ sơ 10H 601, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Còn tại Pháp, ngày 23/12/1946, Thủ tướng Léon Blum ra tuyên bố về tình hình Đông Dương và theo giới tướng lĩnh nước này, cuộc chiến Đông Dương đã bắt đầu.
[1]. Bài viết tổng hợp các thông tin từ hai cuốn "Hải quân Pháp ở Đông Dương 1939-1955, tập 1 (9/1938) và tập 2 (8/1945-12/1946), Lưu trữ Hải quân Pháp, xuất bản năm 1992.
[2] .Tập 1, trang 237, sách đã dẫn.
[3].Viết tắt của "Anglo-Français Numéro“ được ký trong tháng 6.
[4]. South East Asia Command- S.E.A.C.
[5] . Tên tiếng Anh là Naval Officer in charge - N.O.I.C.
[6] . Các hồ sơ số 10H 601, 10H 603, 10H 2354 và 7U 2494, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp.
[7]. Tham khảo thêm bài viết về cuộc hành binh này ở địa chỉ website https://www.archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/cuoc-hanh-binh-bentre-voi-hiep-dinh-so-bo-ngay-06-3-1946.htm
[8]. Hồ sơ 10H 601, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp.
[9] . Tiếng Pháp là France Nouvelle. Năm 1945 được xem là năm quá độ và tái thiết của nước Pháp, dưới chính phủ lâm thời nước Cộng hòa Pháp do tướng De Gaulle lãnh đạo, đánh dấu bằng sự kết thúc Đại chiến thế giới thứ 2, sự ra đời của các thể chế dân chủ mới, cải cách xã hội cũng như các biến động lớn về kinh tế, chính trị.
Ngọc Nhàn