08:28 PM 24/04/2025  | 

Hai câu thực tuyệt phẩm trong bài thơ "Điếu Nguyễn Trung Trực" không chỉ làm rạng danh chiến công người anh hùng áo vải mà còn khiến cho Huỳnh Mẫn Đạt trở thành nhà thơ hàng đầu trên văn đàn thi ca yêu nước đất phương Nam.

Lận đận chốn quan trường

Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883) là một viên quan triều Nguyễn, ông quê ở làng Tân Hội, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định, nay là thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng cũng có tài liệu cho rằng, ông là người Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Trước khi giữ chức Tuần phủ Hà Tiên, chức vụ cao nhất trong cuộc đời làm quan đất phương Nam của mình, Huỳnh Mẫn Đạt từng giữ chức Thự Ngự sử đạo Ninh Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên) năm 1839, rồi chức Giám sát Ngự sử đạo Ninh Thái năm 1840.

Huỳnh Mẫn Đạt được chỉ thị quyền Thự Án Sát Hà Tiên và giữ ấn Tuần phủ quan phòng thay cho Trương Phúc Cương bị tội mất chức. Nhưng chưa kịp lên đường đi Hà Tiên thì có loạn thổ phỉ nổi lên ở nhánh sông Tân Thạnh, ông đốc suất binh dũng đánh giặc khiến nhiều tên bị thiệt mạng, phải tháo chạy. Huỳnh Mẫn Đạt bị thương và phải ở lại Định Tường điều trị. Sau khi bình phục, ông mới lên đường đến Hà Tiên để nhận ấn làm việc. Châu bản ngày 18 tháng 12 năm Minh Mạng 21 (1840) có ghi chép cụ thể về việc này: “Bộ Lại tấu: Quyền thự Án sát Hà Tiên Huỳnh Mẫn Đạt ngày 29 tháng trước phải đến tỉnh nhận ấn làm việc, lại trình kèm rằng viên quan ấy đã bị trọng thương tại quân thứ tìm thuốc để điều trị, cho nên đến nhận chức chậm trễ. Bộ thần phụng minh dụ trong đó có một khoản: Hoàng Mẫn Đạt hiện bị thương nặng ở lại tỉnh Định Tường điều dưỡng, còn việc thiếu khuyết chức Án sát Hà Tiên, hãy để viên quan đã phái trước là Lại khoa chưởng ấn Trần Văn Triện, tạm nhận làm việc. Nay Huỳnh Mẫn Đạt bệnh thuyên giảm, hãy đến tỉnh nhận ấn làm việc ngay, còn Trần Văn Triện vẫn theo dụ trước đến Trấn Tây làm việc. Chỉ này đều phát đi gấp để tuân theo thi hành.”[1]. Đến tháng 2 năm 1842, sau khi Án sát tỉnh Hà Tiên là Đinh Văn Huy mất, Vua chuẩn cho Huỳnh Mẫn Đạt thăng thự Án sát sứ tỉnh Hà Tiên.

Bản Tấu của bộ Lại ngày 18 tháng 12 năm Minh Mạng 21 (1840) về việc Huỳnh Mẫn Đạt bị thương phải ở lại tỉnh Định Tường điều trị, nay bệnh thuyên giảm, đến tỉnh nhận ấn làm việc.

Nguồn: TTLTQGI

 

Quãng đời làm quan thăng trầm của ông bắt đầu từ lúc nhận chức Tuần phủ Hà Tiên năm 1851, sau đó một năm thì bị cách chức cùng Án sát Nguyễn Quỳnh và Tri huyện Lê Trí Dụng do liên quan đến vụ án ẩn lậu thuốc phiện. Đến năm 1859, ông làm Án sát Định Tường được hai năm thì lại xảy ra cơ sự. Pháp tấn công thành Mỹ Tho, do không địch nổi với thế giặc, ông đã để mất thành vào tay giặc Pháp. Ông bị vua Tự Đức hạ lệnh bắt giải về kinh cùng một số quan chức khác, nhưng sau đó được tha, cho theo Nguyễn Tri Phương vào Biên Hòa lập công chuộc tội. Tuy nhiên, khi mới cùng Nguyễn Tri Phương vào tới Bình Thuận, Huỳnh Mẫn Đạt được tin triều đình ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862), nhường cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa). Chẳng bao lâu sau, cả 6 tỉnh Nam Kỳ cũng rơi vào tay Pháp, ông chán nản lui về Hà Tiên ở ẩn đến cuối đời.

Nhà thơ yêu nước ở Nam Bộ thời kỳ đầu chống Pháp

Thơ Huỳnh Mẫn Đạt bày tỏ sự căm ghét bọn tay sai bán nước và lòng ngưỡng mộ những tấm gương anh hùng chống Pháp. Sự khinh ghét bọn tay sai bán nước của ông thường được người đời nhắc đến là giai thoại mỉa mai Tôn Thọ Tường - kẻ đi theo Pháp - làm đến chức Đốc phủ sứ, chiều chiều ngồi xe song mã đi dạo. Không “thèm” giáp mặt với Tôn Thọ Tường trong một buổi nghe lính Pháp hòa tấu nhạc Tây tại bồn kèn, ông bèn lánh sau một gốc cây, mượn lời thơ châm biếm “Đã cam bít mặt cùng trời đất/ Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe”.

Thơ của ông mang đậm tính chiến đấu, ông cũng được xếp vào hàng ngũ những nhà thơ yêu nước ở Nam Bộ thời kỳ đầu chống Pháp. Trong số những bài thơ bày tỏ lòng ngưỡng mộ tấm gương anh hùng chống Pháp, tiêu biểu nhất là bài thơ “Điếu Nguyễn Trung Trực” nổi tiếng với hai câu thơ ca ngợi chiến công lừng lẫy của Nguyễn Trung Trực. Đó là chiến công đốt cháy tàu L'Espérance của Pháp vào năm 1861 và chiến công chiếm đồn Kiên Giang năm 1868:

Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa

Kiếm bạc[2] Kiên Giang khấp quỷ thần

Dịch thơ:

Lửa hồng Nhựt Tảo ran trời đất

Kiếm trắng Kiên Giang rợn quỷ thần

(Cao Tự Thanh - Việt Nam bách gia thi, 2005)

 “Hỏa hồng Nhật Tảo” ghi lại sự kiện Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân đốt cháy tiểu hạm L'Espérance (Hy vọng) - một trong những tàu hạng nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ. Trong trận đánh này, nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực đã tiêu diệt được 17 tên lính và 20 cộng sự người Việt. Chiến thắng Nhựt Tảo được Alfred Schreiner mô tả rằng “Cuộc đốt cháy tàu L'Espérance là một biến cố bi thảm đã gây nên một nỗi xúc động sâu sắc nơi người Pháp và kích thích một cách lạ lùng trí tưởng tượng của người Annam”[3]

“Kiếm bạc Kiên Giang” ca ngợi chiến công của người thủ lĩnh nghĩa quân duy nhất đất Nam Kỳ Nguyễn Trung Trực đánh chiếm đồn Rạch Giá – Kiên Giang sau khi thực dân Pháp thôn tính 3 tỉnh miền Tây. Trận đánh úp lúc 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1868, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân đã tiêu diệt 5 sĩ quan Pháp, 67 lính, thu hơn 100 khẩu súng và đạn dược, trại mã tà cháy rực trong đêm.

Thơ văn Huỳnh Mẫn Đạt phản ánh tính cách con người ông, khẳng khái mà thanh cao “cùng với Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa…ông thuộc lớp nhà Nho khí tiết, nêu cao tinh thần bất khuất chống quân xâm lược Pháp trên mặt trận văn hóa”[4].

 

 

 

 

[1] Châu bản triều Minh Mạng, tập 81 tờ 255, TTLTQGI

[2] Có nhiều dị bản là “bạt”. Thái Bạch dịch thơ “Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất/ Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần”

[3] Alfred Schreiner: “ Abrégé de l’histoire D’ An nam”, 2è Éd. Sài Gòn, 1906, tr.223

[4] “Từ điển thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh”, Thạch Phương, Lê Trung Hoa - NXB trẻ, 2001

Hải Yến